bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.bệnh vô sinh và tâm thần phân liệt. Cũng từ bấy ông mang lòng thù hận nước Mỹ và càng hận thù thêm Cộng sản.
Giờ, chuyến về này chỉ có vợ chồng ông Sỹ, bà Công và con cái, mà không có ông Út và thiếu vắng ông Công.
Kể đến đấy, giọng cô tôi nghẹn lại như người đuối hơi. Tôi bảo: “ở bên Mỹ họ giàu thế. Nghe đâu mấy năm trời, anh em ông Sỹ gửi tiền của về công đức cho dân Tam Thôn, rồi bên ngoại, số tiền lên tới bạc tỉ, qui ra vàng lúc ấy phải mấy kilô. Sao chuyến này, ông Út và ông Công không về hả cô ?”
Cô tôi lắc đầu ngao ngán: “Chuyện về hay ở, anh em ông Sỹ có lúc gần như to tiếng với nhau. Họ chưa thật tin ở thể chế của mình. Vì cụ ông xưa bị Việt Minh xử tội. Con trai lớn ông Sỹ đi lính Ngụy tử trận. Chú ruột là ông Út lại làm lớn trong “Phủ đầu Rồng”. Một trang lý lịch như thế làm sao họ không khỏi băn khoăn. Riêng ông Út còn ra sức giữ chân các cháu. Ông bảo: “Mình là nhà khoa học, được các nước Tây Âu trọng dụng. Tội gì ở bể lại rút về ngòi ? Đã là người tài thường xem nhẹ danh vọng, tiền bạc. Về nước, dù điều kiện làm việc, nghiên cứu khó khăn, mình có thể khắc phục. Nhưng cái đáng sợ nhất là cách đối xử. Liệu mình có được tôn trọng hay không ?”.
Vợ chồng ông Sỹ lúc đầu còn rụt rè, nhưng đến khi hai người con đều là tiến sỹ khoa học, liên tiếp chết vì chứng bệnh ung thư và tai biến mạch máu não, giữa lúc tuổi đời còn rất trẻ, thì vợ chồng ông mới quyết định: bỏ xứ người, về quê cha đất tổ. Ông bảo: “Mình tha hương xứ người lúc đầu vì lòng thù hận và không hiểu. Nhưng đến nay, gần hết cuộc đời, tôi mới nhận ra: Không gì bằng nơi chôn rau - cắt rốn, nơi mình mang tiếng khóc chào đời, với bao kỉ niệm buồn vui. Nhớ lúc cụ ông không còn, mình mẹ phải đầu đội vai mang, thức khuya dậy sớm, nuôi một đàn con ăn học; trong lúc ngoài đường, người chết đói như ngả rạ. Lúc các chú còn nhỏ, tôi đã tận mắt chứng kiến tội ác của giặc Pháp, phát xít Nhật, rồi bọn Tàu Ô vào quấy nhiễu. Dân mình khổ lắm chứ đâu được như bây giờ. Ba mươi năm dòng người ta lãnh đạo đất nước, đổ máu, hy sinh, chịu cảnh tù đày, mới giành được độc lập. Nay những người ngoài cuộc, thậm chí cả người ở hàng ngũ bên kia đòi “Mở rộng tự do dân chủ”, nhằm nhảy vào chia sẻ quyền lực, thì ai người ta chịu. “Đa nguyên - đa Đảng” có thể là một xu thế ở các nước phương tây, nhưng với nước mình vừa trải qua cuộc chiến tranh khốc liệt, cần có thời gian để phát triển kinh tế và hàn gắn vết thương. Không cẩn thận - vững tay chèo, đất nước lại rối loạn như một số nước thì dân mình sẽ khổ.
Có đi nhiều nơi mới thấy: Không đâu bằng nước mình, bốn mùa: xuân, hạ, thu đông. Xứ người giá băng, lạnh lẽo. Nên tôi thấy mình cần phải về để được thắp nén nhang lên mộ phần của ông bà, cha mẹ. Và lúc chết cũng được gửi nắm xương tàn ở quê !...
Lúc ấy, ông Công mới đưa ra tấm ảnh, nhắc lại lần đón tiếp Việt Kiều khắp nơi trên thế giới, về đón xuân tại thủ đổ Hà Nội. Mình giơ máy ảnh. Đúng lúc người đứng đầu nhà nước sau khi chúc tết mọi người, ông bảo: “Tôi không nhầm thì anh Kỳ cũng ở trong khán phòng này?”. Nói rồi, ông rời diễn đàn, bước vội xuống tận hàng ghế bên kia, xiết chặt tay Nguyễn Cao Kỳ, trong tiếng vỗ tay nồng nhiệt.
Đây quả là bức ảnh có một không hai của sự hoà hiếu dân tộc, không phân biệt người thắng, kẻ thua.
Nói rồi, ông cười: “Qua ti vi, mình còn nhìn thấy chính vị đứng đầu nhà nước ấy hai lần mặc áo thô, cầm cày - vỡ đất. Xưa chỉ có Cụ Hồ là người gần gũi với nông dân và đồng ruộng, nay lại có người kế tiếp làm theo”.
Ông Sỹ gật đầu phụ hoạ: “Dân tộc mình kỳ diệu lắm. Một nghìn năm Bắc thuộc, dân mình vẫn không bị “đồng hoá”. Bạo tàn như Pháp và Mỹ rồi cũng chịu thua. Tôi tin đất nước mình đã sinh ra cụ Hồ Chí Minh, thì trước sau nó vẫn phải đi theo con đường Cụ Hồ Chí Minh đã chọn !”.
Kể đến đấy, cô tôi ôm ngực đầu rũ xuống. Tôi phải đỡ cô ngả xuống gối. “Cô ơi, mai cô gặp lại ông Công rồi, hẳn cô sẽ khoẻ thôi!”.
Cô lắc đầu mỏi mệt:
- Không. Chẳng bao giờ ông ấy về nữa !
- Sao thế hả cô ?
Cô tôi gần như chết lặng:
- Ông ấy bị tai nạn máy bay, gần nửa năm rồi !
Tôi chưa kịp hỏi : Sao cô lại biết tường tận mọi điều đến thế, thì cô chỉ tay vào cái bọc cạnh gối, nói một cách khó nhọc: “Đây là… tài sản…. cô dành cho con !...”.
Tôi lóng ngóng mở cái túi vải điều: Một quyển sổ đỏ chứng nhận quyền sở hữu nhà đất mang tên tôi. Di chúc soạn thành văn bản, rồi thư từ, nhắn tin trao đổi, cùng nhiều ảnh ông Công và những trang nhật ký. Tất cả được lưu trong máy tính xách tay. Đây hẳn là món quà ông Công tặng cô. Một lần nữa, tôi gần như chết lặng. Thì ra bao năm rồi cô chôn giấu những kỉ niệm thời nữ sinh trường Đồng Khánh – Cái thời cô thuộc lòng thơ lãng mạn từ nguyên bản tiếng Pháp. Cô bảo: cứ chiều chiều, ông Công lại đón cô ở cổng trường. Hai người chưa bàn gì tới lễ cưới thì anh em ông Sỹ bỏ chạy vào Nam.
Không hiểu sao đời lại phũ phàng với cô tôi đến thế ? Giá như không có những đổi thay liên tiếp của thời cuộc hẳn đến giờ những người con gái dịu hiền, nhan sắc như cô sẽ hạnh phúc biết bao nhiêu.
Giờ, tôi chỉ còn biết thắp nén hương trầm, cầu chúc cho cô được thanh thản, để gặp lại người mình mong đợi suốt cả cuộc đời ở thế giới bên kia.