"Hồi đó, con Nương còn bận cái quần đùi ống rộng, áo vải đã sờn, suốt ngày lẽo đẽo theo tía, trèo lên vạt sàn ghe ngó ra phía bờ sông, coi mấy đứa nhỏ xúm xít chơi nhảy dây, bắn bi, còn nó thì hổng có bạn. Tía nói, đi xa rồi, đừng có nhớ. Nhưng nhiều bữa chiều trời vần vũ mưa, con Nương thẫn thờ chồm người nhìn về phía ấy."
Các phương ngữ Nam Bộ được sử dụng:
- "con Nương" – Cách gọi thân mật, mang sắc thái gần gũi, phổ biến trong phương ngữ Nam Bộ.
- "bận" – Nghĩa là "mặc" trong từ ngữ phổ thông.
- "lẽo đẽo" – Chỉ hành động đi theo một cách lặng lẽ, nhỏ bé.
- "ngó" – Nghĩa là "nhìn".
- "hổng có" – Nghĩa là "không có".
- "tía" – Nghĩa là "cha", cách gọi phổ biến ở Nam Bộ.
- "coi" – Nghĩa là "xem".
- "vần vũ" – Nghĩa là "nhiều mây đen, sắp mưa lớn", mang sắc thái bình dân.
- "chồm người" – Nghĩa là "vươn người ra phía trước".
Tác dụng của phương ngữ Nam Bộ:
- Tạo màu sắc địa phương rõ nét: Việc sử dụng những từ ngữ quen thuộc của người dân Nam Bộ giúp tác phẩm trở nên chân thực, gần gũi với đời sống của con người miền sông nước.
- Thể hiện cá tính nhân vật: Những phương ngữ này làm nổi bật cách nói chuyện và suy nghĩ của con người trong không gian sống của họ, từ đó giúp nhân vật trở nên sống động hơn.
- Tạo cảm xúc chân thật: Nhờ phương ngữ, câu văn trở nên mộc mạc, giản dị nhưng đầy cảm xúc, thể hiện nỗi buồn man mác, sự cô đơn của nhân vật bé Nương trong cảnh sống lênh đênh.
Nhìn chung, việc sử dụng phương ngữ Nam Bộ trong văn của Nguyễn Ngọc Tư không chỉ là một thủ pháp nghệ thuật mà còn là cách để tác giả gìn giữ vẻ đẹp ngôn ngữ của quê hương mình, đồng thời giúp người đọc dễ dàng cảm nhận được hơi thở cuộc sống nơi miền Tây sông nước.