Bài học cùng chủ đề
Báo cáo học liệu
Mua học liệu
Mua học liệu:
-
Số dư ví của bạn: 0 coin - 0 Xu
-
Nếu mua học liệu này bạn sẽ bị trừ: 2 coin\Xu
Để nhận Coin\Xu, bạn có thể:
![](http://luyenthi24.edu.vn/images/bird.gif)
Chiều sâu của truyện Lão Hạc (Phần 2) SVIP
Lưu ý: Ở điểm dừng, nếu không thấy nút nộp bài, bạn hãy kéo thanh trượt xuống dưới.
Bạn phải xem đến hết Video thì mới được lưu thời gian xem.
Để đảm bảo tốc độ truyền video, OLM lưu trữ video trên youtube. Do vậy phụ huynh tạm thời không chặn youtube để con có thể xem được bài giảng.
Nội dung này là Video có điểm dừng: Xem video kết hợp với trả lời câu hỏi.
Nếu câu hỏi nào bị trả lời sai, bạn sẽ phải trả lời lại dạng bài đó đến khi nào đúng mới qua được điểm dừng.
Bạn không được phép tua video qua một điểm dừng chưa hoàn thành.
Dữ liệu luyện tập chỉ được lưu khi bạn qua mỗi điểm dừng.
Bài giảng giúp học sinh:
- Tìm hiểu chi tiết: Cách lập luận của tác giả.
- Tổng kết: Nội dung; Nghệ thuật.
CHIỀU SÂU CỦA TRUYỆN LÃO HẠC
(Văn Giá)
(1) […] Cái hay của truyện là ở chỗ nào? Đâu là chỗ mà tài năng nghệ thuật của Nam Cao được thi thố? Tôi nghiệm ra rằng tác phẩm này có hai điểm mà tác giả dụng công nhiều nhất: Một, ông đã đưa hoạt động giao tiếp (câu chuyện giữa ông giáo và lão Hạc qua hai lần gặp gỡ) trở thành đối tượng nhận thức và mô tả trực tiếp. Hai, thông qua nội dung các cuộc trò chuyện ấy, tác giả đã gián tiếp thể hiện một tình thế lựa chọn của lão Hạc (lựa chọn giữa cái sống và cái chết cùng những hệ lụy của chúng).
(2) Như chúng ta thấy, Nam Cao chỉ để cho lão Hạc tiếp xúc với ông giáo cả thảy hai lần – lần một đến thăm, trò chuyện, bộc lộ ý định bán chó; lần hai, ngay hôm sau khi bán chó, lão đến để gửi vườn và tiền. Toàn bộ câu chuyện là do nhân vật “tôi” – ông giáo – kể lại hai lần gặp gỡ chủ yếu của mình với lão Hạc, ngoài ra còn hai lần khác nữa: lần nói chuyện với vợ và lần nói chuyện với Binh Tư. Như vậy, hầu như từ đầu đến cuối truyện toàn thấy các cuộc trò chuyện mà thôi. Nếu không cao tay, truyện sẽ trở nên đơn điệu, xuôi chiều, có nguy cơ nhạt nhẽo. Lựa chọn như vậy, Nam Cao khắc phục bằng cách nào? Đã trò chuyện thì ắt phải có nội dung, đương nhiên nội dung là quan trọng, nó cho ta biết có những chuyện gì trong đó. Song ở điểm này, Nam Cao dường như cho phơi bày ra hết, không giấu giếm, không nửa vời. Nhưng không chỉ có thế, có lẽ cái quan trọng hơn đối với tác giả là cách thức trò chuyện giữa hai người (bộc lộ qua điệu bộ, cử chỉ, giọng điệu, sự ngắt quãng, tâm thế người nói và tâm thế người nghe,…). Cả hai lần trò chuyện, ta thấy lão Hạc là người trong tâm thế của kẻ đi nhờ cậy cho nên lão nhẩn nha, rề rà, vừa nói vừa nghĩ, vừa nghe ngóng, vừa băn khoăn thăm dò xem hiệu quả lời nói của mình đối với người nghe như thế nào,… Còn ông giáo – người nghe, vừa nghe, đánh giá, liên tưởng về thân phận mình, vừa cố nhận biết cho được những ý nghĩ thực của lão Hạc, vừa điều chỉnh những đánh giá của mình sao cho đúng đắn. Chính qua cái cách thức trò chuyện này, các nhân vật cứ dần dần lộ ra mỗi lúc một rõ nét những suy tư nội tâm của mình: một bên là người già cả đầy âu lo, toan tính một cách tội nghiệp theo tinh thần khắc kỉ và lòng bác ái Cơ đốc giáo, một bên là người biết lắng nghe, lòng đầy cảm thương, chia sẻ, muốn an ủi, vỗ về,… Cách thức trò chuyện đã ẩn tàng nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là bản thân những lời trò chuyện. Vậy là không cần hành động, không cần biến cố (hai yếu tố này đã bị thiểu giảm tới mức tối đa), tác giả để cho tính cách nhân vật hiện lên qua hai cuộc trò chuyện, nhờ vào đó để triển khai tâm tưởng bề sâu của nhân vật. Chân dung nhân vật như móc vào tâm trí người đọc. Đây cũng là một ưu thế của cây bút Nam Cao.
Về phần cuối truyện, tác giả đặt nhân vật vào hai toạ độ nhìn khác: vợ ông giáo và Binh Tư. Trò chuyện với vợ, ông giáo nghiền ngẫm triết lí về việc nhìn nhận và đánh giá người đời. Trò chuyện với Binh Tư, ông giáo từ sửng sốt chuyển sang thất vọng về lão Hạc. Ở chỗ này, Nam Cao thật cao tay - ông đưa ra một sự hiểu lầm bất ngờ, để rồi cũng bằng cách bất ngờ nhất, ông “lật tẩy” sự việc, làm cho người đọc thoả mãn trong sự hiểu biết trọn vẹn: lão Hạc vẫn vẹn nguyên trong sạch đến lúc chết! Giấu đến tận cùng số phận nhân vật, thỉnh thoảng hé mở vài cảnh huống gây sự hiểu lầm, rồi cuối cùng giải toả sự hiểu lầm ấy là một thành công đặc sắc của nghệ thuật tự sự Nam Cao ở truyện này. Đây là một thủ pháp tự sự đã áp dụng một cách tinh tế, xử lí thật điệu nghệ và cũng thật hiện đại so với truyền thống.
Nếu để ý kĩ, ta nhận thấy ở phần đầu truyện có một đoạn người kể chuyện vốn là "tôi" – ông giáo - bị thay thế bằng chính tác giả. Ông không nhờ vai người kể chuyện nữa, mà nhập thẳng vào đời sống của lão Hạc (đoạn miêu tả lão ngồi uống rượu cưng nựng cậu Vàng). Đây là một “pha” tác giả soi quét cái nhìn trần thuật của mình vào đời sống hoạt động và tâm tưởng của lão Hạc. Nhờ thế, cùng cộng lực với các đường nét từ cái nhìn của người kể chuyện, thao tác này đã góp phần tạo dựng nên chân dung lão Hạc phong phú, sắc nét và có chiều sâu hơn. Vậy là chao đảo đi qua bốn điểm nhìn tự sự - tác giả, ông giáo, vợ ông giáo và Binh Tư - nhân vật lão Hạc từ xa lạ trở nên gần gũi, thân mật, sau đó lại bị ghét bỏ, bị hiểu lầm rồi cuối cùng được hiểu đúng và thân thương hơn, đau xót hơn. Cái nhìn từ tấm lòng tác giả là mạch chủ đạo, chi phối và liên kết các điểm nhìn khác.
(3) Từ việc miêu tả hoạt động giao tiếp của các nhân vật, tác giả đã gián tiếp đưa ra một tình thế lựa chọn của lão Hạc mà các dấu hiệu của nó đã được chuẩn bị ngay từ đầu. Đó là việc giải quyết cái sống và cái chết. Sống liệu có giữ được mảnh vườn cho con mà vẫn có cái để cho vào miệng hay không (còn bán mất mảnh vườn sẽ là một trọng tội không thể tha thứ được trong lương tâm của lão đối với người vợ đã khuất và đứa con đang ở xa); hay là chết thì sẽ giữ được mảnh vườn, lương tâm yên ổn, nhưng chết phải chết như thế nào, chuẩn bị cho cái chết ra sao?... Cuối cùng, lão lựa chọn cái chết, đầu tiên lão để cho cậu Vàng chết trước. Sau đó mới đến lão. Lão âm thầm, tỉ mẩn chuẩn bị, dọn dẹp cho mình một con đường sạch sẽ, chu tất để bước đến nhà mồ (lão nhờ ông giáo giữ vườn khỏi bị ai tranh chiếm, nhòm ngó; nhờ ông cầm ba mươi đồng để cậy bà con lo ma cho lão). Lão đã chọn một cái chết trong còn hơn sống khổ, sống nhục. Lão đã chết một cách cao ngạo và thảm khốc. Chỉ có bằng cách này, lão mới khỏi phạm vào mảnh đất thiêng dành cho con lão và mới có thể chấm dứt kiếp sống héo úa, lay lắt của mình. Tội nghiệp cho lão, chắc hẳn lão nung nấu ý định chết từ lâu rồi, từ cái ngày đầu sang nói chuyện bán cậu Vàng với ông giáo, rõ nhất là cái hôm lão sang gửi vườn và tiền. Chả thế mà câu chuyện của lão rề rà, vòng vo, nặng nhọc, nhức nhối một điều gì đó thật khó nói; tâm can lão bị đè nặng bởi ý định tự tử mà lão muốn giấu. Lão đã làm tất cả những gì có thể làm được trước khi đi đến cái chết, tuy lặng lẽ, âm thầm mà thật dữ dội, quyết liệt… Thương thay! Để bảo toàn nhân cách của mình, không có con đường nào khác là phải chủ động tìm đến cái chết. Không chỉ là một cái chết mà là hai: cậu Vàng – bạn tinh thần của lão – và chính lão. Mà chết để làm gì, nếu không phải là để cấy cái sống cho tiền đồ của đứa con chưa báo hiệu điều gì hứa hẹn! Đó là một lựa chọn tột cùng đau đớn của thân phận con người. Ý nghĩa câu chuyện chủ yếu được phát sáng từ điểm then chốt này.
(4) Nói chung, truyện của Nam Cao không phải là loại truyện giản đơn trong cấu tứ, dựng truyện và triển khai mạch truyện; thậm chí không phải là dễ hiểu ngay được các tầng nghĩa nổi chìm trong đó (mặc dù chúng khoác một vẻ ngoài hết sức giản dị, thậm chí trần trụi – có lẽ nhờ đội quân ngôn ngữ lấm láp, quẫy đạp của ông). Thế nhưng truyện Lão Hạc thật tự nhiên, dung dị, hấp dẫn và mênh mông buồn. Tài nghệ và tấm lòng của nhà văn Nam Cao một lần nữa, ở đây, lại được kí thác hết mình.
(Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông, NXB Giáo dục, 1997)
Trong phần mở đầu, tác giả đã dẫn dắt vào vấn đề nghị luận bằng cách nào?
CHIỀU SÂU CỦA TRUYỆN LÃO HẠC
(Văn Giá)
(1) […] Cái hay của truyện là ở chỗ nào? Đâu là chỗ mà tài năng nghệ thuật của Nam Cao được thi thố? Tôi nghiệm ra rằng tác phẩm này có hai điểm mà tác giả dụng công nhiều nhất: Một, ông đã đưa hoạt động giao tiếp (câu chuyện giữa ông giáo và lão Hạc qua hai lần gặp gỡ) trở thành đối tượng nhận thức và mô tả trực tiếp. Hai, thông qua nội dung các cuộc trò chuyện ấy, tác giả đã gián tiếp thể hiện một tình thế lựa chọn của lão Hạc (lựa chọn giữa cái sống và cái chết cùng những hệ lụy của chúng).
(2) Như chúng ta thấy, Nam Cao chỉ để cho lão Hạc tiếp xúc với ông giáo cả thảy hai lần – lần một đến thăm, trò chuyện, bộc lộ ý định bán chó; lần hai, ngay hôm sau khi bán chó, lão đến để gửi vườn và tiền. Toàn bộ câu chuyện là do nhân vật “tôi” – ông giáo – kể lại hai lần gặp gỡ chủ yếu của mình với lão Hạc, ngoài ra còn hai lần khác nữa: lần nói chuyện với vợ và lần nói chuyện với Binh Tư. Như vậy, hầu như từ đầu đến cuối truyện toàn thấy các cuộc trò chuyện mà thôi. Nếu không cao tay, truyện sẽ trở nên đơn điệu, xuôi chiều, có nguy cơ nhạt nhẽo. Lựa chọn như vậy, Nam Cao khắc phục bằng cách nào? Đã trò chuyện thì ắt phải có nội dung, đương nhiên nội dung là quan trọng, nó cho ta biết có những chuyện gì trong đó. Song ở điểm này, Nam Cao dường như cho phơi bày ra hết, không giấu giếm, không nửa vời. Nhưng không chỉ có thế, có lẽ cái quan trọng hơn đối với tác giả là cách thức trò chuyện giữa hai người (bộc lộ qua điệu bộ, cử chỉ, giọng điệu, sự ngắt quãng, tâm thế người nói và tâm thế người nghe,…). Cả hai lần trò chuyện, ta thấy lão Hạc là người trong tâm thế của kẻ đi nhờ cậy cho nên lão nhẩn nha, rề rà, vừa nói vừa nghĩ, vừa nghe ngóng, vừa băn khoăn thăm dò xem hiệu quả lời nói của mình đối với người nghe như thế nào,… Còn ông giáo – người nghe, vừa nghe, đánh giá, liên tưởng về thân phận mình, vừa cố nhận biết cho được những ý nghĩ thực của lão Hạc, vừa điều chỉnh những đánh giá của mình sao cho đúng đắn. Chính qua cái cách thức trò chuyện này, các nhân vật cứ dần dần lộ ra mỗi lúc một rõ nét những suy tư nội tâm của mình: một bên là người già cả đầy âu lo, toan tính một cách tội nghiệp theo tinh thần khắc kỉ và lòng bác ái Cơ đốc giáo, một bên là người biết lắng nghe, lòng đầy cảm thương, chia sẻ, muốn an ủi, vỗ về,… Cách thức trò chuyện đã ẩn tàng nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là bản thân những lời trò chuyện. Vậy là không cần hành động, không cần biến cố (hai yếu tố này đã bị thiểu giảm tới mức tối đa), tác giả để cho tính cách nhân vật hiện lên qua hai cuộc trò chuyện, nhờ vào đó để triển khai tâm tưởng bề sâu của nhân vật. Chân dung nhân vật như móc vào tâm trí người đọc. Đây cũng là một ưu thế của cây bút Nam Cao.
Về phần cuối truyện, tác giả đặt nhân vật vào hai toạ độ nhìn khác: vợ ông giáo và Binh Tư. Trò chuyện với vợ, ông giáo nghiền ngẫm triết lí về việc nhìn nhận và đánh giá người đời. Trò chuyện với Binh Tư, ông giáo từ sửng sốt chuyển sang thất vọng về lão Hạc. Ở chỗ này, Nam Cao thật cao tay - ông đưa ra một sự hiểu lầm bất ngờ, để rồi cũng bằng cách bất ngờ nhất, ông “lật tẩy” sự việc, làm cho người đọc thoả mãn trong sự hiểu biết trọn vẹn: lão Hạc vẫn vẹn nguyên trong sạch đến lúc chết! Giấu đến tận cùng số phận nhân vật, thỉnh thoảng hé mở vài cảnh huống gây sự hiểu lầm, rồi cuối cùng giải toả sự hiểu lầm ấy là một thành công đặc sắc của nghệ thuật tự sự Nam Cao ở truyện này. Đây là một thủ pháp tự sự đã áp dụng một cách tinh tế, xử lí thật điệu nghệ và cũng thật hiện đại so với truyền thống.
Nếu để ý kĩ, ta nhận thấy ở phần đầu truyện có một đoạn người kể chuyện vốn là "tôi" – ông giáo - bị thay thế bằng chính tác giả. Ông không nhờ vai người kể chuyện nữa, mà nhập thẳng vào đời sống của lão Hạc (đoạn miêu tả lão ngồi uống rượu cưng nựng cậu Vàng). Đây là một “pha” tác giả soi quét cái nhìn trần thuật của mình vào đời sống hoạt động và tâm tưởng của lão Hạc. Nhờ thế, cùng cộng lực với các đường nét từ cái nhìn của người kể chuyện, thao tác này đã góp phần tạo dựng nên chân dung lão Hạc phong phú, sắc nét và có chiều sâu hơn. Vậy là chao đảo đi qua bốn điểm nhìn tự sự - tác giả, ông giáo, vợ ông giáo và Binh Tư - nhân vật lão Hạc từ xa lạ trở nên gần gũi, thân mật, sau đó lại bị ghét bỏ, bị hiểu lầm rồi cuối cùng được hiểu đúng và thân thương hơn, đau xót hơn. Cái nhìn từ tấm lòng tác giả là mạch chủ đạo, chi phối và liên kết các điểm nhìn khác.
(3) Từ việc miêu tả hoạt động giao tiếp của các nhân vật, tác giả đã gián tiếp đưa ra một tình thế lựa chọn của lão Hạc mà các dấu hiệu của nó đã được chuẩn bị ngay từ đầu. Đó là việc giải quyết cái sống và cái chết. Sống liệu có giữ được mảnh vườn cho con mà vẫn có cái để cho vào miệng hay không (còn bán mất mảnh vườn sẽ là một trọng tội không thể tha thứ được trong lương tâm của lão đối với người vợ đã khuất và đứa con đang ở xa); hay là chết thì sẽ giữ được mảnh vườn, lương tâm yên ổn, nhưng chết phải chết như thế nào, chuẩn bị cho cái chết ra sao?... Cuối cùng, lão lựa chọn cái chết, đầu tiên lão để cho cậu Vàng chết trước. Sau đó mới đến lão. Lão âm thầm, tỉ mẩn chuẩn bị, dọn dẹp cho mình một con đường sạch sẽ, chu tất để bước đến nhà mồ (lão nhờ ông giáo giữ vườn khỏi bị ai tranh chiếm, nhòm ngó; nhờ ông cầm ba mươi đồng để cậy bà con lo ma cho lão). Lão đã chọn một cái chết trong còn hơn sống khổ, sống nhục. Lão đã chết một cách cao ngạo và thảm khốc. Chỉ có bằng cách này, lão mới khỏi phạm vào mảnh đất thiêng dành cho con lão và mới có thể chấm dứt kiếp sống héo úa, lay lắt của mình. Tội nghiệp cho lão, chắc hẳn lão nung nấu ý định chết từ lâu rồi, từ cái ngày đầu sang nói chuyện bán cậu Vàng với ông giáo, rõ nhất là cái hôm lão sang gửi vườn và tiền. Chả thế mà câu chuyện của lão rề rà, vòng vo, nặng nhọc, nhức nhối một điều gì đó thật khó nói; tâm can lão bị đè nặng bởi ý định tự tử mà lão muốn giấu. Lão đã làm tất cả những gì có thể làm được trước khi đi đến cái chết, tuy lặng lẽ, âm thầm mà thật dữ dội, quyết liệt… Thương thay! Để bảo toàn nhân cách của mình, không có con đường nào khác là phải chủ động tìm đến cái chết. Không chỉ là một cái chết mà là hai: cậu Vàng – bạn tinh thần của lão – và chính lão. Mà chết để làm gì, nếu không phải là để cấy cái sống cho tiền đồ của đứa con chưa báo hiệu điều gì hứa hẹn! Đó là một lựa chọn tột cùng đau đớn của thân phận con người. Ý nghĩa câu chuyện chủ yếu được phát sáng từ điểm then chốt này.
(4) Nói chung, truyện của Nam Cao không phải là loại truyện giản đơn trong cấu tứ, dựng truyện và triển khai mạch truyện; thậm chí không phải là dễ hiểu ngay được các tầng nghĩa nổi chìm trong đó (mặc dù chúng khoác một vẻ ngoài hết sức giản dị, thậm chí trần trụi – có lẽ nhờ đội quân ngôn ngữ lấm láp, quẫy đạp của ông). Thế nhưng truyện Lão Hạc thật tự nhiên, dung dị, hấp dẫn và mênh mông buồn. Tài nghệ và tấm lòng của nhà văn Nam Cao một lần nữa, ở đây, lại được kí thác hết mình.
(Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông, NXB Giáo dục, 1997)
Điều mà người viết phát hiện ra phía sau “cách thức trò chuyện” là những gì?
CHIỀU SÂU CỦA TRUYỆN LÃO HẠC
(Văn Giá)
(1) […] Cái hay của truyện là ở chỗ nào? Đâu là chỗ mà tài năng nghệ thuật của Nam Cao được thi thố? Tôi nghiệm ra rằng tác phẩm này có hai điểm mà tác giả dụng công nhiều nhất: Một, ông đã đưa hoạt động giao tiếp (câu chuyện giữa ông giáo và lão Hạc qua hai lần gặp gỡ) trở thành đối tượng nhận thức và mô tả trực tiếp. Hai, thông qua nội dung các cuộc trò chuyện ấy, tác giả đã gián tiếp thể hiện một tình thế lựa chọn của lão Hạc (lựa chọn giữa cái sống và cái chết cùng những hệ lụy của chúng).
(2) Như chúng ta thấy, Nam Cao chỉ để cho lão Hạc tiếp xúc với ông giáo cả thảy hai lần – lần một đến thăm, trò chuyện, bộc lộ ý định bán chó; lần hai, ngay hôm sau khi bán chó, lão đến để gửi vườn và tiền. Toàn bộ câu chuyện là do nhân vật “tôi” – ông giáo – kể lại hai lần gặp gỡ chủ yếu của mình với lão Hạc, ngoài ra còn hai lần khác nữa: lần nói chuyện với vợ và lần nói chuyện với Binh Tư. Như vậy, hầu như từ đầu đến cuối truyện toàn thấy các cuộc trò chuyện mà thôi. Nếu không cao tay, truyện sẽ trở nên đơn điệu, xuôi chiều, có nguy cơ nhạt nhẽo. Lựa chọn như vậy, Nam Cao khắc phục bằng cách nào? Đã trò chuyện thì ắt phải có nội dung, đương nhiên nội dung là quan trọng, nó cho ta biết có những chuyện gì trong đó. Song ở điểm này, Nam Cao dường như cho phơi bày ra hết, không giấu giếm, không nửa vời. Nhưng không chỉ có thế, có lẽ cái quan trọng hơn đối với tác giả là cách thức trò chuyện giữa hai người (bộc lộ qua điệu bộ, cử chỉ, giọng điệu, sự ngắt quãng, tâm thế người nói và tâm thế người nghe,…). Cả hai lần trò chuyện, ta thấy lão Hạc là người trong tâm thế của kẻ đi nhờ cậy cho nên lão nhẩn nha, rề rà, vừa nói vừa nghĩ, vừa nghe ngóng, vừa băn khoăn thăm dò xem hiệu quả lời nói của mình đối với người nghe như thế nào,… Còn ông giáo – người nghe, vừa nghe, đánh giá, liên tưởng về thân phận mình, vừa cố nhận biết cho được những ý nghĩ thực của lão Hạc, vừa điều chỉnh những đánh giá của mình sao cho đúng đắn. Chính qua cái cách thức trò chuyện này, các nhân vật cứ dần dần lộ ra mỗi lúc một rõ nét những suy tư nội tâm của mình: một bên là người già cả đầy âu lo, toan tính một cách tội nghiệp theo tinh thần khắc kỉ và lòng bác ái Cơ đốc giáo, một bên là người biết lắng nghe, lòng đầy cảm thương, chia sẻ, muốn an ủi, vỗ về,… Cách thức trò chuyện đã ẩn tàng nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là bản thân những lời trò chuyện. Vậy là không cần hành động, không cần biến cố (hai yếu tố này đã bị thiểu giảm tới mức tối đa), tác giả để cho tính cách nhân vật hiện lên qua hai cuộc trò chuyện, nhờ vào đó để triển khai tâm tưởng bề sâu của nhân vật. Chân dung nhân vật như móc vào tâm trí người đọc. Đây cũng là một ưu thế của cây bút Nam Cao.
Về phần cuối truyện, tác giả đặt nhân vật vào hai toạ độ nhìn khác: vợ ông giáo và Binh Tư. Trò chuyện với vợ, ông giáo nghiền ngẫm triết lí về việc nhìn nhận và đánh giá người đời. Trò chuyện với Binh Tư, ông giáo từ sửng sốt chuyển sang thất vọng về lão Hạc. Ở chỗ này, Nam Cao thật cao tay - ông đưa ra một sự hiểu lầm bất ngờ, để rồi cũng bằng cách bất ngờ nhất, ông “lật tẩy” sự việc, làm cho người đọc thoả mãn trong sự hiểu biết trọn vẹn: lão Hạc vẫn vẹn nguyên trong sạch đến lúc chết! Giấu đến tận cùng số phận nhân vật, thỉnh thoảng hé mở vài cảnh huống gây sự hiểu lầm, rồi cuối cùng giải toả sự hiểu lầm ấy là một thành công đặc sắc của nghệ thuật tự sự Nam Cao ở truyện này. Đây là một thủ pháp tự sự đã áp dụng một cách tinh tế, xử lí thật điệu nghệ và cũng thật hiện đại so với truyền thống.
Nếu để ý kĩ, ta nhận thấy ở phần đầu truyện có một đoạn người kể chuyện vốn là "tôi" – ông giáo - bị thay thế bằng chính tác giả. Ông không nhờ vai người kể chuyện nữa, mà nhập thẳng vào đời sống của lão Hạc (đoạn miêu tả lão ngồi uống rượu cưng nựng cậu Vàng). Đây là một “pha” tác giả soi quét cái nhìn trần thuật của mình vào đời sống hoạt động và tâm tưởng của lão Hạc. Nhờ thế, cùng cộng lực với các đường nét từ cái nhìn của người kể chuyện, thao tác này đã góp phần tạo dựng nên chân dung lão Hạc phong phú, sắc nét và có chiều sâu hơn. Vậy là chao đảo đi qua bốn điểm nhìn tự sự - tác giả, ông giáo, vợ ông giáo và Binh Tư - nhân vật lão Hạc từ xa lạ trở nên gần gũi, thân mật, sau đó lại bị ghét bỏ, bị hiểu lầm rồi cuối cùng được hiểu đúng và thân thương hơn, đau xót hơn. Cái nhìn từ tấm lòng tác giả là mạch chủ đạo, chi phối và liên kết các điểm nhìn khác.
(3) Từ việc miêu tả hoạt động giao tiếp của các nhân vật, tác giả đã gián tiếp đưa ra một tình thế lựa chọn của lão Hạc mà các dấu hiệu của nó đã được chuẩn bị ngay từ đầu. Đó là việc giải quyết cái sống và cái chết. Sống liệu có giữ được mảnh vườn cho con mà vẫn có cái để cho vào miệng hay không (còn bán mất mảnh vườn sẽ là một trọng tội không thể tha thứ được trong lương tâm của lão đối với người vợ đã khuất và đứa con đang ở xa); hay là chết thì sẽ giữ được mảnh vườn, lương tâm yên ổn, nhưng chết phải chết như thế nào, chuẩn bị cho cái chết ra sao?... Cuối cùng, lão lựa chọn cái chết, đầu tiên lão để cho cậu Vàng chết trước. Sau đó mới đến lão. Lão âm thầm, tỉ mẩn chuẩn bị, dọn dẹp cho mình một con đường sạch sẽ, chu tất để bước đến nhà mồ (lão nhờ ông giáo giữ vườn khỏi bị ai tranh chiếm, nhòm ngó; nhờ ông cầm ba mươi đồng để cậy bà con lo ma cho lão). Lão đã chọn một cái chết trong còn hơn sống khổ, sống nhục. Lão đã chết một cách cao ngạo và thảm khốc. Chỉ có bằng cách này, lão mới khỏi phạm vào mảnh đất thiêng dành cho con lão và mới có thể chấm dứt kiếp sống héo úa, lay lắt của mình. Tội nghiệp cho lão, chắc hẳn lão nung nấu ý định chết từ lâu rồi, từ cái ngày đầu sang nói chuyện bán cậu Vàng với ông giáo, rõ nhất là cái hôm lão sang gửi vườn và tiền. Chả thế mà câu chuyện của lão rề rà, vòng vo, nặng nhọc, nhức nhối một điều gì đó thật khó nói; tâm can lão bị đè nặng bởi ý định tự tử mà lão muốn giấu. Lão đã làm tất cả những gì có thể làm được trước khi đi đến cái chết, tuy lặng lẽ, âm thầm mà thật dữ dội, quyết liệt… Thương thay! Để bảo toàn nhân cách của mình, không có con đường nào khác là phải chủ động tìm đến cái chết. Không chỉ là một cái chết mà là hai: cậu Vàng – bạn tinh thần của lão – và chính lão. Mà chết để làm gì, nếu không phải là để cấy cái sống cho tiền đồ của đứa con chưa báo hiệu điều gì hứa hẹn! Đó là một lựa chọn tột cùng đau đớn của thân phận con người. Ý nghĩa câu chuyện chủ yếu được phát sáng từ điểm then chốt này.
(4) Nói chung, truyện của Nam Cao không phải là loại truyện giản đơn trong cấu tứ, dựng truyện và triển khai mạch truyện; thậm chí không phải là dễ hiểu ngay được các tầng nghĩa nổi chìm trong đó (mặc dù chúng khoác một vẻ ngoài hết sức giản dị, thậm chí trần trụi – có lẽ nhờ đội quân ngôn ngữ lấm láp, quẫy đạp của ông). Thế nhưng truyện Lão Hạc thật tự nhiên, dung dị, hấp dẫn và mênh mông buồn. Tài nghệ và tấm lòng của nhà văn Nam Cao một lần nữa, ở đây, lại được kí thác hết mình.
(Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông, NXB Giáo dục, 1997)
Từ những “điểm nhìn tự sự”, người viết khẳng định điều gì?
CHIỀU SÂU CỦA TRUYỆN LÃO HẠC
(Văn Giá)
(1) […] Cái hay của truyện là ở chỗ nào? Đâu là chỗ mà tài năng nghệ thuật của Nam Cao được thi thố? Tôi nghiệm ra rằng tác phẩm này có hai điểm mà tác giả dụng công nhiều nhất: Một, ông đã đưa hoạt động giao tiếp (câu chuyện giữa ông giáo và lão Hạc qua hai lần gặp gỡ) trở thành đối tượng nhận thức và mô tả trực tiếp. Hai, thông qua nội dung các cuộc trò chuyện ấy, tác giả đã gián tiếp thể hiện một tình thế lựa chọn của lão Hạc (lựa chọn giữa cái sống và cái chết cùng những hệ lụy của chúng).
(2) Như chúng ta thấy, Nam Cao chỉ để cho lão Hạc tiếp xúc với ông giáo cả thảy hai lần – lần một đến thăm, trò chuyện, bộc lộ ý định bán chó; lần hai, ngay hôm sau khi bán chó, lão đến để gửi vườn và tiền. Toàn bộ câu chuyện là do nhân vật “tôi” – ông giáo – kể lại hai lần gặp gỡ chủ yếu của mình với lão Hạc, ngoài ra còn hai lần khác nữa: lần nói chuyện với vợ và lần nói chuyện với Binh Tư. Như vậy, hầu như từ đầu đến cuối truyện toàn thấy các cuộc trò chuyện mà thôi. Nếu không cao tay, truyện sẽ trở nên đơn điệu, xuôi chiều, có nguy cơ nhạt nhẽo. Lựa chọn như vậy, Nam Cao khắc phục bằng cách nào? Đã trò chuyện thì ắt phải có nội dung, đương nhiên nội dung là quan trọng, nó cho ta biết có những chuyện gì trong đó. Song ở điểm này, Nam Cao dường như cho phơi bày ra hết, không giấu giếm, không nửa vời. Nhưng không chỉ có thế, có lẽ cái quan trọng hơn đối với tác giả là cách thức trò chuyện giữa hai người (bộc lộ qua điệu bộ, cử chỉ, giọng điệu, sự ngắt quãng, tâm thế người nói và tâm thế người nghe,…). Cả hai lần trò chuyện, ta thấy lão Hạc là người trong tâm thế của kẻ đi nhờ cậy cho nên lão nhẩn nha, rề rà, vừa nói vừa nghĩ, vừa nghe ngóng, vừa băn khoăn thăm dò xem hiệu quả lời nói của mình đối với người nghe như thế nào,… Còn ông giáo – người nghe, vừa nghe, đánh giá, liên tưởng về thân phận mình, vừa cố nhận biết cho được những ý nghĩ thực của lão Hạc, vừa điều chỉnh những đánh giá của mình sao cho đúng đắn. Chính qua cái cách thức trò chuyện này, các nhân vật cứ dần dần lộ ra mỗi lúc một rõ nét những suy tư nội tâm của mình: một bên là người già cả đầy âu lo, toan tính một cách tội nghiệp theo tinh thần khắc kỉ và lòng bác ái Cơ đốc giáo, một bên là người biết lắng nghe, lòng đầy cảm thương, chia sẻ, muốn an ủi, vỗ về,… Cách thức trò chuyện đã ẩn tàng nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là bản thân những lời trò chuyện. Vậy là không cần hành động, không cần biến cố (hai yếu tố này đã bị thiểu giảm tới mức tối đa), tác giả để cho tính cách nhân vật hiện lên qua hai cuộc trò chuyện, nhờ vào đó để triển khai tâm tưởng bề sâu của nhân vật. Chân dung nhân vật như móc vào tâm trí người đọc. Đây cũng là một ưu thế của cây bút Nam Cao.
Về phần cuối truyện, tác giả đặt nhân vật vào hai toạ độ nhìn khác: vợ ông giáo và Binh Tư. Trò chuyện với vợ, ông giáo nghiền ngẫm triết lí về việc nhìn nhận và đánh giá người đời. Trò chuyện với Binh Tư, ông giáo từ sửng sốt chuyển sang thất vọng về lão Hạc. Ở chỗ này, Nam Cao thật cao tay - ông đưa ra một sự hiểu lầm bất ngờ, để rồi cũng bằng cách bất ngờ nhất, ông “lật tẩy” sự việc, làm cho người đọc thoả mãn trong sự hiểu biết trọn vẹn: lão Hạc vẫn vẹn nguyên trong sạch đến lúc chết! Giấu đến tận cùng số phận nhân vật, thỉnh thoảng hé mở vài cảnh huống gây sự hiểu lầm, rồi cuối cùng giải toả sự hiểu lầm ấy là một thành công đặc sắc của nghệ thuật tự sự Nam Cao ở truyện này. Đây là một thủ pháp tự sự đã áp dụng một cách tinh tế, xử lí thật điệu nghệ và cũng thật hiện đại so với truyền thống.
Nếu để ý kĩ, ta nhận thấy ở phần đầu truyện có một đoạn người kể chuyện vốn là "tôi" – ông giáo - bị thay thế bằng chính tác giả. Ông không nhờ vai người kể chuyện nữa, mà nhập thẳng vào đời sống của lão Hạc (đoạn miêu tả lão ngồi uống rượu cưng nựng cậu Vàng). Đây là một “pha” tác giả soi quét cái nhìn trần thuật của mình vào đời sống hoạt động và tâm tưởng của lão Hạc. Nhờ thế, cùng cộng lực với các đường nét từ cái nhìn của người kể chuyện, thao tác này đã góp phần tạo dựng nên chân dung lão Hạc phong phú, sắc nét và có chiều sâu hơn. Vậy là chao đảo đi qua bốn điểm nhìn tự sự - tác giả, ông giáo, vợ ông giáo và Binh Tư - nhân vật lão Hạc từ xa lạ trở nên gần gũi, thân mật, sau đó lại bị ghét bỏ, bị hiểu lầm rồi cuối cùng được hiểu đúng và thân thương hơn, đau xót hơn. Cái nhìn từ tấm lòng tác giả là mạch chủ đạo, chi phối và liên kết các điểm nhìn khác.
(3) Từ việc miêu tả hoạt động giao tiếp của các nhân vật, tác giả đã gián tiếp đưa ra một tình thế lựa chọn của lão Hạc mà các dấu hiệu của nó đã được chuẩn bị ngay từ đầu. Đó là việc giải quyết cái sống và cái chết. Sống liệu có giữ được mảnh vườn cho con mà vẫn có cái để cho vào miệng hay không (còn bán mất mảnh vườn sẽ là một trọng tội không thể tha thứ được trong lương tâm của lão đối với người vợ đã khuất và đứa con đang ở xa); hay là chết thì sẽ giữ được mảnh vườn, lương tâm yên ổn, nhưng chết phải chết như thế nào, chuẩn bị cho cái chết ra sao?... Cuối cùng, lão lựa chọn cái chết, đầu tiên lão để cho cậu Vàng chết trước. Sau đó mới đến lão. Lão âm thầm, tỉ mẩn chuẩn bị, dọn dẹp cho mình một con đường sạch sẽ, chu tất để bước đến nhà mồ (lão nhờ ông giáo giữ vườn khỏi bị ai tranh chiếm, nhòm ngó; nhờ ông cầm ba mươi đồng để cậy bà con lo ma cho lão). Lão đã chọn một cái chết trong còn hơn sống khổ, sống nhục. Lão đã chết một cách cao ngạo và thảm khốc. Chỉ có bằng cách này, lão mới khỏi phạm vào mảnh đất thiêng dành cho con lão và mới có thể chấm dứt kiếp sống héo úa, lay lắt của mình. Tội nghiệp cho lão, chắc hẳn lão nung nấu ý định chết từ lâu rồi, từ cái ngày đầu sang nói chuyện bán cậu Vàng với ông giáo, rõ nhất là cái hôm lão sang gửi vườn và tiền. Chả thế mà câu chuyện của lão rề rà, vòng vo, nặng nhọc, nhức nhối một điều gì đó thật khó nói; tâm can lão bị đè nặng bởi ý định tự tử mà lão muốn giấu. Lão đã làm tất cả những gì có thể làm được trước khi đi đến cái chết, tuy lặng lẽ, âm thầm mà thật dữ dội, quyết liệt… Thương thay! Để bảo toàn nhân cách của mình, không có con đường nào khác là phải chủ động tìm đến cái chết. Không chỉ là một cái chết mà là hai: cậu Vàng – bạn tinh thần của lão – và chính lão. Mà chết để làm gì, nếu không phải là để cấy cái sống cho tiền đồ của đứa con chưa báo hiệu điều gì hứa hẹn! Đó là một lựa chọn tột cùng đau đớn của thân phận con người. Ý nghĩa câu chuyện chủ yếu được phát sáng từ điểm then chốt này.
(4) Nói chung, truyện của Nam Cao không phải là loại truyện giản đơn trong cấu tứ, dựng truyện và triển khai mạch truyện; thậm chí không phải là dễ hiểu ngay được các tầng nghĩa nổi chìm trong đó (mặc dù chúng khoác một vẻ ngoài hết sức giản dị, thậm chí trần trụi – có lẽ nhờ đội quân ngôn ngữ lấm láp, quẫy đạp của ông). Thế nhưng truyện Lão Hạc thật tự nhiên, dung dị, hấp dẫn và mênh mông buồn. Tài nghệ và tấm lòng của nhà văn Nam Cao một lần nữa, ở đây, lại được kí thác hết mình.
(Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông, NXB Giáo dục, 1997)
Luận điểm trong đoạn (3) có tác dụng gì?
CHIỀU SÂU CỦA TRUYỆN LÃO HẠC
(Văn Giá)
(1) […] Cái hay của truyện là ở chỗ nào? Đâu là chỗ mà tài năng nghệ thuật của Nam Cao được thi thố? Tôi nghiệm ra rằng tác phẩm này có hai điểm mà tác giả dụng công nhiều nhất: Một, ông đã đưa hoạt động giao tiếp (câu chuyện giữa ông giáo và lão Hạc qua hai lần gặp gỡ) trở thành đối tượng nhận thức và mô tả trực tiếp. Hai, thông qua nội dung các cuộc trò chuyện ấy, tác giả đã gián tiếp thể hiện một tình thế lựa chọn của lão Hạc (lựa chọn giữa cái sống và cái chết cùng những hệ lụy của chúng).
(2) Như chúng ta thấy, Nam Cao chỉ để cho lão Hạc tiếp xúc với ông giáo cả thảy hai lần – lần một đến thăm, trò chuyện, bộc lộ ý định bán chó; lần hai, ngay hôm sau khi bán chó, lão đến để gửi vườn và tiền. Toàn bộ câu chuyện là do nhân vật “tôi” – ông giáo – kể lại hai lần gặp gỡ chủ yếu của mình với lão Hạc, ngoài ra còn hai lần khác nữa: lần nói chuyện với vợ và lần nói chuyện với Binh Tư. Như vậy, hầu như từ đầu đến cuối truyện toàn thấy các cuộc trò chuyện mà thôi. Nếu không cao tay, truyện sẽ trở nên đơn điệu, xuôi chiều, có nguy cơ nhạt nhẽo. Lựa chọn như vậy, Nam Cao khắc phục bằng cách nào? Đã trò chuyện thì ắt phải có nội dung, đương nhiên nội dung là quan trọng, nó cho ta biết có những chuyện gì trong đó. Song ở điểm này, Nam Cao dường như cho phơi bày ra hết, không giấu giếm, không nửa vời. Nhưng không chỉ có thế, có lẽ cái quan trọng hơn đối với tác giả là cách thức trò chuyện giữa hai người (bộc lộ qua điệu bộ, cử chỉ, giọng điệu, sự ngắt quãng, tâm thế người nói và tâm thế người nghe,…). Cả hai lần trò chuyện, ta thấy lão Hạc là người trong tâm thế của kẻ đi nhờ cậy cho nên lão nhẩn nha, rề rà, vừa nói vừa nghĩ, vừa nghe ngóng, vừa băn khoăn thăm dò xem hiệu quả lời nói của mình đối với người nghe như thế nào,… Còn ông giáo – người nghe, vừa nghe, đánh giá, liên tưởng về thân phận mình, vừa cố nhận biết cho được những ý nghĩ thực của lão Hạc, vừa điều chỉnh những đánh giá của mình sao cho đúng đắn. Chính qua cái cách thức trò chuyện này, các nhân vật cứ dần dần lộ ra mỗi lúc một rõ nét những suy tư nội tâm của mình: một bên là người già cả đầy âu lo, toan tính một cách tội nghiệp theo tinh thần khắc kỉ và lòng bác ái Cơ đốc giáo, một bên là người biết lắng nghe, lòng đầy cảm thương, chia sẻ, muốn an ủi, vỗ về,… Cách thức trò chuyện đã ẩn tàng nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là bản thân những lời trò chuyện. Vậy là không cần hành động, không cần biến cố (hai yếu tố này đã bị thiểu giảm tới mức tối đa), tác giả để cho tính cách nhân vật hiện lên qua hai cuộc trò chuyện, nhờ vào đó để triển khai tâm tưởng bề sâu của nhân vật. Chân dung nhân vật như móc vào tâm trí người đọc. Đây cũng là một ưu thế của cây bút Nam Cao.
Về phần cuối truyện, tác giả đặt nhân vật vào hai toạ độ nhìn khác: vợ ông giáo và Binh Tư. Trò chuyện với vợ, ông giáo nghiền ngẫm triết lí về việc nhìn nhận và đánh giá người đời. Trò chuyện với Binh Tư, ông giáo từ sửng sốt chuyển sang thất vọng về lão Hạc. Ở chỗ này, Nam Cao thật cao tay - ông đưa ra một sự hiểu lầm bất ngờ, để rồi cũng bằng cách bất ngờ nhất, ông “lật tẩy” sự việc, làm cho người đọc thoả mãn trong sự hiểu biết trọn vẹn: lão Hạc vẫn vẹn nguyên trong sạch đến lúc chết! Giấu đến tận cùng số phận nhân vật, thỉnh thoảng hé mở vài cảnh huống gây sự hiểu lầm, rồi cuối cùng giải toả sự hiểu lầm ấy là một thành công đặc sắc của nghệ thuật tự sự Nam Cao ở truyện này. Đây là một thủ pháp tự sự đã áp dụng một cách tinh tế, xử lí thật điệu nghệ và cũng thật hiện đại so với truyền thống.
Nếu để ý kĩ, ta nhận thấy ở phần đầu truyện có một đoạn người kể chuyện vốn là "tôi" – ông giáo - bị thay thế bằng chính tác giả. Ông không nhờ vai người kể chuyện nữa, mà nhập thẳng vào đời sống của lão Hạc (đoạn miêu tả lão ngồi uống rượu cưng nựng cậu Vàng). Đây là một “pha” tác giả soi quét cái nhìn trần thuật của mình vào đời sống hoạt động và tâm tưởng của lão Hạc. Nhờ thế, cùng cộng lực với các đường nét từ cái nhìn của người kể chuyện, thao tác này đã góp phần tạo dựng nên chân dung lão Hạc phong phú, sắc nét và có chiều sâu hơn. Vậy là chao đảo đi qua bốn điểm nhìn tự sự - tác giả, ông giáo, vợ ông giáo và Binh Tư - nhân vật lão Hạc từ xa lạ trở nên gần gũi, thân mật, sau đó lại bị ghét bỏ, bị hiểu lầm rồi cuối cùng được hiểu đúng và thân thương hơn, đau xót hơn. Cái nhìn từ tấm lòng tác giả là mạch chủ đạo, chi phối và liên kết các điểm nhìn khác.
(3) Từ việc miêu tả hoạt động giao tiếp của các nhân vật, tác giả đã gián tiếp đưa ra một tình thế lựa chọn của lão Hạc mà các dấu hiệu của nó đã được chuẩn bị ngay từ đầu. Đó là việc giải quyết cái sống và cái chết. Sống liệu có giữ được mảnh vườn cho con mà vẫn có cái để cho vào miệng hay không (còn bán mất mảnh vườn sẽ là một trọng tội không thể tha thứ được trong lương tâm của lão đối với người vợ đã khuất và đứa con đang ở xa); hay là chết thì sẽ giữ được mảnh vườn, lương tâm yên ổn, nhưng chết phải chết như thế nào, chuẩn bị cho cái chết ra sao?... Cuối cùng, lão lựa chọn cái chết, đầu tiên lão để cho cậu Vàng chết trước. Sau đó mới đến lão. Lão âm thầm, tỉ mẩn chuẩn bị, dọn dẹp cho mình một con đường sạch sẽ, chu tất để bước đến nhà mồ (lão nhờ ông giáo giữ vườn khỏi bị ai tranh chiếm, nhòm ngó; nhờ ông cầm ba mươi đồng để cậy bà con lo ma cho lão). Lão đã chọn một cái chết trong còn hơn sống khổ, sống nhục. Lão đã chết một cách cao ngạo và thảm khốc. Chỉ có bằng cách này, lão mới khỏi phạm vào mảnh đất thiêng dành cho con lão và mới có thể chấm dứt kiếp sống héo úa, lay lắt của mình. Tội nghiệp cho lão, chắc hẳn lão nung nấu ý định chết từ lâu rồi, từ cái ngày đầu sang nói chuyện bán cậu Vàng với ông giáo, rõ nhất là cái hôm lão sang gửi vườn và tiền. Chả thế mà câu chuyện của lão rề rà, vòng vo, nặng nhọc, nhức nhối một điều gì đó thật khó nói; tâm can lão bị đè nặng bởi ý định tự tử mà lão muốn giấu. Lão đã làm tất cả những gì có thể làm được trước khi đi đến cái chết, tuy lặng lẽ, âm thầm mà thật dữ dội, quyết liệt… Thương thay! Để bảo toàn nhân cách của mình, không có con đường nào khác là phải chủ động tìm đến cái chết. Không chỉ là một cái chết mà là hai: cậu Vàng – bạn tinh thần của lão – và chính lão. Mà chết để làm gì, nếu không phải là để cấy cái sống cho tiền đồ của đứa con chưa báo hiệu điều gì hứa hẹn! Đó là một lựa chọn tột cùng đau đớn của thân phận con người. Ý nghĩa câu chuyện chủ yếu được phát sáng từ điểm then chốt này.
(4) Nói chung, truyện của Nam Cao không phải là loại truyện giản đơn trong cấu tứ, dựng truyện và triển khai mạch truyện; thậm chí không phải là dễ hiểu ngay được các tầng nghĩa nổi chìm trong đó (mặc dù chúng khoác một vẻ ngoài hết sức giản dị, thậm chí trần trụi – có lẽ nhờ đội quân ngôn ngữ lấm láp, quẫy đạp của ông). Thế nhưng truyện Lão Hạc thật tự nhiên, dung dị, hấp dẫn và mênh mông buồn. Tài nghệ và tấm lòng của nhà văn Nam Cao một lần nữa, ở đây, lại được kí thác hết mình.
(Nhà văn và tác phẩm trong trường phổ thông, NXB Giáo dục, 1997)
Trong đoạn cuối, tác giả thể hiện tình cảm, cảm xúc gì?
Văn bản dưới đây là được tạo ra tự động từ nhận diện giọng nói trong video nên có thể có lỗi
- Chào mừng các em đến với khóa học Ngữ
- Văn lớp 8 của Trang web
- [âm nhạc]
- olm.vn ở video trước các bạn đã cùng cô
- tìm hiểu những kiến thức chung về tác
- giả và tác phẩm bên cạnh đó các bạn cũng
- khám phá ra được luận đề và hệ thống
- luận điểm trong bài viết ở video này
- chúng ta sẽ cùng nhau đến với phần cách
- lập luận của tác
- giả đầu tiên đó là cách mà tác giả nêu
- vấn đề nghị luận trong phần mở đầu tác
- giả đã dẫn dắt vào vấn đề nghị luận bằng
- cách nào hãy đọc lại đoạn đầu của bài
- viết và giúp cô trả lời câu hỏi này
- nhé một câu hỏi hỏi rất đơn giản đúng
- không nào trong phần mở đầu tác giả đã
- dẫn dắt vào vấn đề nghị luận bằng cách
- đặt ra những câu hỏi như cái hay của
- truyện là ở chỗ nào đâu là chỗ mà tài
- năng nghệ thuật của Nam cao được thi thố
- việc đặt ra những câu hỏi ở phần này
- nhằm mục đích nêu lên vấn đề mà bài viết
- hướng đến là làm sáng tỏ nét đặc sắc
- trong truyện ngắn Lão hoạt nơi bộc lộ
- tài năng của nhà văn Nam
- Cao Sau khi giới thiệu vấn đề nghị luận
- Tác giả đã đi nhanh vào phân tích chứng
- minh bình luận cái hay trong truyện của
- lão
- hạt luận điểm thứ nhất câu chuyện giữa
- ông giáo và lão hạt qua hai lần gặp gỡ
- đã trở thành đối tượng nhận thức và mô
- tả trực tiếp tính cách nhân vật theo tác
- giả Nam Cao chỉ để cho lão hạt tiếp xúc
- với ông Sáu cả thảy hai lần lần một đến
- thăm trò chuyện bộc lộ ý định bán chó
- lần hai ngay hôm sau khi bán chó lão đến
- để gửi vườn và tiền hầu như từ đầu đến
- cuối truyện toàn thấy các cuộc trò
- chuyện mà thôi Tuy nhiên đối với nam cao
- nhà Vân không chỉ chú trọng vào nội dung
- tức là câu chuyện trong cuộc trò chuyện
- mà ông còn quan tâm hơn hết đó chính là
- cái cách thức trò chuyện điều mà người
- viết phát hiện ra phía sau cách thức trò
- chuyện là những
- gì
- phía sau cách thức trò chuyện người viết
- đã phát hiện ra được các nhân vật cứ dần
- dần lộ ra mỗi lúc một rõ nét những suy
- tư nội tâm của mình một bên là người già
- đầy âu lo toan tính một cách tội nghiệp
- theo tinh thần khắc kỹ và lòng bác ái cơ
- đốc giáo một bên là người biết lắng nghe
- lòng đầy cảm thương chia sẻ muốn an ủi
- vỗ về không cần hành động không cần biến
- cố tác giả để cho tính cách nhân vật
- hiện lên qua hai cuộc trò chuyện này đến
- cuối tác phẩm tác giả đặt nhân vật vào
- tọa độ nhìn khác cụ thể là vợ ông Sáu và
- binh Tư riêng với cuộc trò chuyện giữa
- ông giáo và binh tư đã tạo ra một sự
- hiểu lầm khiến ông giáo thất vọng về lão
- hạt nhưng đây chính là nghệ thuật tự sự
- đặc sắc nhằm xây dựng hình ảnh lão hạt
- vẫn nguyên vẹn trong sạch cho đến lúc
- chết
- Bên cạnh đó ở Đu văn bản người kể chuyện
- là chính tác giả nhập thẳng vào đời sống
- của lão Hạc được xem là một pha tác giả
- soi quét cái nhìn trần thuật của mình
- vào đời sống hoạt động và tâm tưởng của
- lão
- Hạc Như vậy theo tác giả thì trong
- truyện ngắn có bốn điểm nhìn tự sự là
- tác giả ông Sáu vợ ông sáo và binh tư từ
- những điểm nhìn tự sự người viết khẳng
- định
- rất chính xác từ điểm nhìn thự sự thì
- người viết khẳng định cái nhìn từ tấm
- lòng tác giả là mạch chủ đạo chi phối và
- liên cách các điểm nhìn khác nhau qua
- đây chúng ta có thể thấy được luật điểm
- gắn bó mật thiết với luận đề và giúp làm
- sáng tỏ luận đề của văn
- bản trong phần này chúng ta cũng có thể
- chú ý đến hệ thống lý lẽ và bằng chứng
- được sử dụng để làm sáng tỏ luận điểm lý
- lẽ thứ nhất cách thức trò chuyện đã ẩn
- tàn nhiều ý nghĩa sâu xa hơn là bản thân
- những lời trò chuyện bằng chứng tác giả
- nêu ra số lần ông sáo và lão hạt trò
- chuyện chú trọng Phân tích tâm thế của
- ông sáo và lão hạt trong cuộc trò chuyện
- và ở đây ông giáo chính là người kể
- chuyện lý lệ thứ hai giấu đến tầng cùng
- số phận nhân vật thỉnh thoảng hé mở một
- vài cảnh huống gây sự hiểu lầm rồi cuối
- cùng giải tỏa sự hiểu lầm ấy là một
- thành công đặc sắc của nghệ thuật tự sự
- nam cao ở truyện này và cũng ở phân này
- thì tác giả đã phân tích cuộc trò chuyện
- giữa các nhân vật lý lệ thứ ba là cách
- nhìn từ tấm lòng tác giả là mạch chủ đạo
- chi phối và liên kết các điểm nhìn khác
- nhau thì ở trong phần này tác giả cũng
- sử dụng bằng chứng đó chính là phân tích
- sự thay đổi mạch kể
- chuyện như vậy chúng ta thấy được rằng ở
- luận điểm thứ nhất tác giả đã sử dụng
- khá nhiều những lý lẽ và bằng chứng xắc
- đáng cụ thể có cái sự liên kết để làm
- nổi bật luận điểm và từ luận điểm đó thì
- chúng ta cũng có thể nhìn thấy nó có cái
- sự liên kết đối với luận đề Bây giờ
- chúng ta sẽ đến với luận điểm thứ hai
- tác giả đã giáng tiếp thể hiện một tình
- thế lựa chọn của lão hạt giữa cái sống
- và cái chết cùng những hệ lũy của
- chúng bây giờ các bạn hãy đọc lại đoạn
- thứ ba và cho cô biết luận điểm trong
- đoạn ba có tác dụng
- gì từ việc miêu tả hoạt động giao tiếp
- của các nhân vật tác giả đã sáng tiếp
- đưa ra một tình thế lựa chọn của lão hạt
- mà các dấu hiệu của nó đã được chuẩn bị
- ngay từ đầu sóng liệu có giữ được mảnh
- vườn cho con mà vẫn có cái để cho vào
- miệng hay không hay là chết thì sẽ giữ
- được mãnh vườn lương tâm yên ổn nhưng
- chết phải chết như thế nào chuẩn bị cho
- cái chết ra sao cuối cùng lão lựa chọn
- cái chết lão đã chọn một cái chết trong
- còn hơn phải sống khổ Sống Nhục lão đã
- làm tất cả những gì có thể làm được
- trước khi đi đến cái chết Tuy lặng lẽ âm
- thầm mà thật dữ dội quyết liệt để bảo
- toàn nhân cách của mình không có con
- đường nào khác là phải chủ động tìm đến
- cái chết cái chết của lão là để cái cái
- sống cho tiền đồ của đứa con chưa báo
- hiệu điều gì hứa hẹn có thể thấy luận
- điểm ở phần 3 đã đi sâu phân tích hoạt
- động giao tiếp của các nhân vật về tình
- thế lựa chọn của lão hạt trong truyện
- giữa cái sống và cái chết cùng những hệ
- lụy của chúng vấn đề này giúp làm rõ hơn
- giá trị tư tưởng trong tác phẩm Lão
- hạt qua đây cũng có thể thấy cách người
- viết sử dụng lý lẻ và bằng chứng để làm
- sáng tỏ các luận để chính trong văn bản
- rất thuyết phục xác thực và được trình
- bày theo một trình tự hợp lý lý lẽ và
- bằng chứng được sử dụng ngay sau luận
- điểm chính mà nhờ đó vấn đề nghị luận
- được làm sáng rõ
- hơn và cuối cùng chúng ta sẽ tìm hiểu về
- cách tác giả khái quát nghệ thuật viết
- truyện đầy tài hoa của Nam Cao phần B có
- thể được xem là kết bài vì nó là tổng
- hợp lại nội dung của bài viết vấn đề
- nghị luận được khẳng định truyền của Nam
- Cao không phải là loài truyện giảng đơn
- trong cấu Tứ dựng truyện và triển khai
- mạch truyện Thậm chí không phải là dễ
- hiểu ngay được các tầng nghĩa nổi chìm
- trong đó trong đoạn cuối tác giả đã thể
- hiện tình cảm cảm xúc
- gì cũng trong đoạn văn này tác giả đã
- thể hiện cảm xúc trân trọng mến phục đối
- với tài năng nghệ thuật của Nam
- Cao chúng ta có thể chú ý vào đoạn cuối
- Nói chung truyện của Nam Cao không phải
- là loại truyện giản đơn trong cấu Tứ
- dựng truyện và triển khai mạch truyền
- Thậm chí không phải là dễ hiểu ngay được
- các tầng nghĩa nổi chìm trong đó mặc dù
- chúng khoác một vẻ ngoài hết sức giản dì
- thậm chí Trần Trụi Có lẽ nhờ đội quân
- ngôn ngữ lấm láp quẩy đạp của ông thế
- nhưng truyền lão hạt thật Tự nhiên dung
- dị hấp dẫn và mê mong buồn tài nghệ V
- tấm lòng của nhà văn Nam Cao một lần nữa
- Ở đây lại được ký thác hết
- mình như vậy Vừa rồi chúng Minh đã cùng
- nhau tìm hiểu về cách lập luận của tác
- giả và các bạn đã thấy được hệ thống các
- luận điểm lý lẽ và bằng chứng bây giờ
- chúng ta sẽ cùng nhau đến với phần cuối
- cùng đó chính là tổng
- kết về nội dung văn bản đề cập đến những
- cái hay cái đẹp được tác giả thể hiện
- trong tác phẩm Lão hạt thông qua những
- chi tiết Đắc giá và đặc sắc nghệ thuật
- được sử dụng về mặt nghệ thuật các bạn
- cần lưu ý một số điểm sau đây thứ nhất
- các luận điểm có sự gắn bó mật thiết với
- luận đề và được sắp xếp theo một hệ
- thống rất hợp lý thứ hai các lý lệ giải
- thích làm rõ luận điểm tăng sức thuyết
- phục cho bài viết và thứ ba đó chính là
- luận đề của văn bản được làm sáng tỏ về
- thuyết phục các bạn thân mến như vậy
- trong video ngày hôm nay của Vô trò
- chúng mình đã cùng nhau tìm hiểu xong về
- văn bản Chiều sau của truyện Lão hạt
- thông qua bài học này hy vọng là các bạn
- sẽ có những cái nhìn mới lạ thú vị về
- nghệ thuật thể hiện trong truyện Lão hạt
- Bên cạnh đó các bạn cũng sẽ củng cố
- những kiến thức và kỹ năng khi chúng ta
- viết một bài văn nghị luận văn học Xin
- chào và hẹn gặp lại tất cả các bạn trong
- những video tiếp tiếp theo
- nhé
Bạn có thể đăng câu hỏi về bài học này ở đây