Giới thiệu về bản thân
a) Tứ giác ADHE là HCN.Vì :
xét tứ giác ADHE có : góc DAE=90độ (tam giác ABC vuông tại A)
góc ADH=90 độ (HD vuông với AB tại D )
góc AEH=90 độ (HE vuông với AC tại E)
Suy ra :góc DAE=ADH=AEH=90 độ nên tứ giác ADHE là HCN (3 góc vuông)
vậy tứ giác ADHE là HCN (nhận biết)
b)Vì tam giác ADH vuông tại D
Theo định lý Pythagore ta có:
AH^2=AD^2+DH^2
5 ^2 =4^2+DH^2
DH^2= 5^2-4^2
DH^2=25-16
DH^2=9
DH=3(cm)
Suy ra DH =3 (cm)
Diện tích của HCN ADHE là :
4.3=12(cm)
Vậy diện tích tứ giác ADHE LÀ 12cm nếu AD=4cm AH=5cm
a) Tứ giác ADHE là HCN.Vì :
xét tứ giác ADHE có : góc DAE=90độ (tam giác ABC vuông tại A)
góc ADH=90 độ (HD vuông với AB tại D )
góc AEH=90 độ (HE vuông với AC tại E)
Suy ra :góc DAE=ADH=AEH=90 độ nên tứ giác ADHE là HCN (3 góc vuông)
vậy tứ giác ADHE là HCN (nhận biết)
b)Vì tam giác ADH vuông tại D
Theo định lý Pythagore ta có:
AH^2=AD^2+DH^2
5 ^2 =4^2+DH^2
DH^2= 5^2-4^2
DH^2=25-16
DH^2=9
DH=3(cm)
Suy ra DH =3 (cm)
Diện tích của HCN ADHE là :
4.3=12(cm)
Vậy diện tích tứ giác ADHE LÀ 12cm nếu AD=4cm AH=5cm
a)5(x+2y)−15x(x+2y)=(x+2y)-(5-15x)
b)4x2−12x+9=(2x-3)^2
c) \(\left.\left(\right.3x-2\right)^3-3\left(\right.x-4\left.\right)\left(\right.x+4\left.\right)+\left.\left(\right.x-3\right)^3-\left(\right.x+1\left.\right)\left(\right.x^2-x+1\left.\right)\)=27x^3−66x^2+63x+12
Ngày xưa, các dân tộc thiểu số Việt Nam đã sáng tạo ra nhiều phương tiện vận chuyển phù hợp với địa hình rừng núi và sông suối. Trên đường bộ, họ chủ yếu dùng đôi gùi để đeo hàng lên lưng, quang gánh để gánh đồ, và xe trâu, xe bò để chở nặng trên các tuyến đường dài. Trong các phiên chợ hay khi đi xa, gùi và quang gánh giúp họ di chuyển dễ dàng qua đồi núi hiểm trở. Trên sông, suối, người dân sử dụng bè mảng ghép từ thân tre, gỗ, và thuyền độc mộc đục khoét từ thân cây lớn để đi lại và vận chuyển hàng hóa. Những phương tiện này không chỉ phục vụ nhu cầu đi lại mà còn giúp giao thương, trao đổi sản vật giữa các làng bản. Qua đó, thể hiện sự sáng tạo và khả năng thích ứng tuyệt vời của đồng bào các dân tộc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Các phương tiện ấy ngày nay vẫn còn xuất hiện ở một số vùng miền núi.
Ngày xưa, các dân tộc thiểu số Việt Nam đã sáng tạo ra nhiều phương tiện vận chuyển phù hợp với địa hình rừng núi và sông suối. Trên đường bộ, họ chủ yếu dùng đôi gùi để đeo hàng lên lưng, quang gánh để gánh đồ, và xe trâu, xe bò để chở nặng trên các tuyến đường dài. Trong các phiên chợ hay khi đi xa, gùi và quang gánh giúp họ di chuyển dễ dàng qua đồi núi hiểm trở. Trên sông, suối, người dân sử dụng bè mảng ghép từ thân tre, gỗ, và thuyền độc mộc đục khoét từ thân cây lớn để đi lại và vận chuyển hàng hóa. Những phương tiện này không chỉ phục vụ nhu cầu đi lại mà còn giúp giao thương, trao đổi sản vật giữa các làng bản. Qua đó, thể hiện sự sáng tạo và khả năng thích ứng tuyệt vời của đồng bào các dân tộc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Các phương tiện ấy ngày nay vẫn còn xuất hiện ở một số vùng miền núi.
Ngày xưa, các dân tộc thiểu số Việt Nam đã sáng tạo ra nhiều phương tiện vận chuyển phù hợp với địa hình rừng núi và sông suối. Trên đường bộ, họ chủ yếu dùng đôi gùi để đeo hàng lên lưng, quang gánh để gánh đồ, và xe trâu, xe bò để chở nặng trên các tuyến đường dài. Trong các phiên chợ hay khi đi xa, gùi và quang gánh giúp họ di chuyển dễ dàng qua đồi núi hiểm trở. Trên sông, suối, người dân sử dụng bè mảng ghép từ thân tre, gỗ, và thuyền độc mộc đục khoét từ thân cây lớn để đi lại và vận chuyển hàng hóa. Những phương tiện này không chỉ phục vụ nhu cầu đi lại mà còn giúp giao thương, trao đổi sản vật giữa các làng bản. Qua đó, thể hiện sự sáng tạo và khả năng thích ứng tuyệt vời của đồng bào các dân tộc với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt. Các phương tiện ấy ngày nay vẫn còn xuất hiện ở một số vùng miền núi.