Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Nguyễn Thị Vân Hà
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)

Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập trường, lớp em đã có một chuyến tham quan về nguồn vô cùng ý nghĩa tại Khu di tích lịch sử Xương Giang – thành phố Bắc Giang, nơi ghi dấu chiến thắng oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.

Sáng hôm ấy, không khí thật náo nức. Ai cũng chuẩn bị chu đáo: áo đồng phục, mũ, nước uống, cờ nhỏ… Khi xe bắt đầu lăn bánh, tiếng nói cười vang khắp xe. Con đường đến khu di tích rợp bóng cây xanh, từng ngôi nhà, cánh đồng lúa hiện ra bình yên mà thân thuộc. Đến nơi, chúng em được cô hướng dẫn viên kể về trận Xương Giang năm 1427, khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi quyết định, mở ra nền độc lập cho dân tộc. Em và các bạn chăm chú lắng nghe, lòng dâng lên niềm tự hào khi đứng trên mảnh đất lịch sử của quê hương mình.

Sau khi dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, chúng em tham quan khu đền chính, xem những bức phù điêu và tấm bia khắc ghi chiến công. Buổi trưa, cả lớp quây quần bên nhau ăn trưa, rồi chụp ảnh lưu niệm giữa khuôn viên rợp bóng cây. Ai cũng thấy vui và thêm yêu quê hương Bắc Giang hơn.

Chuyến đi hôm ấy tuy ngắn nhưng để lại trong em nhiều kỉ niệm sâu sắc. Em hiểu hơn về lịch sử dân tộc, về truyền thống yêu nước và lòng tự hào quê hương. Em tự hứa sẽ cố gắng học thật tốt để xứng đáng với những thế hệ cha anh đã hi sinh vì Tổ quốc.

Niềm hi vọng là ánh sáng dẫn đường, là sức mạnh tinh thần không thể thiếu giúp con người vượt qua mọi gian khó. Trong bối cảnh khó khăn, niềm hi vọng giống như "tiếng đùng" pháo trúc cuối bài thơ "Chợ Đồng", báo hiệu sự thay đổi tích cực sắp đến, xua đi sự u ám và xáo xác. Nó nuôi dưỡng ý chí kiên cường, giúp ta đứng vững trước những thất bại, biến nỗi tuyệt vọng thành động lực phấn đấu mạnh mẽ. Khi mang trong mình hi vọng, con người sẽ không ngừng tìm kiếm giải pháp, chủ động đối diện và vượt qua vấn đề thay vì buông xuôi. Chính niềm tin vào một tương lai tốt đẹp hơn giúp cuộc sống có ý nghĩa, mang lại sự lạc quan để tiếp tục hành trình. Vì vậy, hi vọng không chỉ là mong muốn mà còn là chiếc neo giữ vững tâm hồn ta giữa mọi bão táp cuộc đời.

Nhân dịp kỉ niệm ngày thành lập trường, lớp em đã có một chuyến tham quan về nguồn vô cùng ý nghĩa tại Khu di tích lịch sử Xương Giang – thành phố Bắc Giang, nơi ghi dấu chiến thắng oanh liệt của nghĩa quân Lam Sơn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh xâm lược.

Sáng hôm ấy, không khí thật náo nức. Ai cũng chuẩn bị chu đáo: áo đồng phục, mũ, nước uống, cờ nhỏ… Khi xe bắt đầu lăn bánh, tiếng nói cười vang khắp xe. Con đường đến khu di tích rợp bóng cây xanh, từng ngôi nhà, cánh đồng lúa hiện ra bình yên mà thân thuộc. Đến nơi, chúng em được cô hướng dẫn viên kể về trận Xương Giang năm 1427, khi nghĩa quân Lam Sơn giành thắng lợi quyết định, mở ra nền độc lập cho dân tộc. Em và các bạn chăm chú lắng nghe, lòng dâng lên niềm tự hào khi đứng trên mảnh đất lịch sử của quê hương mình.

Sau khi dâng hương tưởng niệm các anh hùng liệt sĩ, chúng em tham quan khu đền chính, xem những bức phù điêu và tấm bia khắc ghi chiến công. Buổi trưa, cả lớp quây quần bên nhau ăn trưa, rồi chụp ảnh lưu niệm giữa khuôn viên rợp bóng cây. Ai cũng thấy vui và thêm yêu quê hương Bắc Giang hơn.

Chuyến đi hôm ấy tuy ngắn nhưng để lại trong em nhiều kỉ niệm sâu sắc. Em hiểu hơn về lịch sử dân tộc, về truyền thống yêu nước và lòng tự hào quê hương. Em tự hứa sẽ cố gắng học thật tốt để xứng đáng với những thế hệ cha anh đã hi sinh vì Tổ quốc.

Câu 1. Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn bát cú luật Đường.

Câu 2. Những hình ảnh thiên nhiên được nhắc đến trong bốn dòng thơ đầu: hoè lục đùn đùn; thạch lựu phun thức đỏ; hồng liên trì tiễn mùi hương.

(HS cũng có thể diễn đạt: hoa hoè sum suê, thạch lựu nở hoa đỏ chói; hoa sen đến mùa nở rộ;…)

Câu 3.

– Biện pháp đảo ngữ: từ “lao xao”, “dắng dỏi” được đảo lên đầu các dòng thơ “Lao xao chợ cá làng ngư phủ,/ Dắng dỏi cầm ve lầu tịch dương.”.

– Tác dụng:

+ Tạo nhạc điệu, gợi sự sôi nổi của đời sống.

+ Nhấn mạnh âm thanh sống động trong đời sống lao động của con người.

+ Làm nổi bật bức tranh mùa hè không chỉ có màu sắc, hương vị mà còn có âm thanh chân thực của con người và thiên nhiên.

Câu 4. Trong hai dòng thơ cuối, tác giả đã bộc lộ tình cảm, cảm xúc:

– Niềm mong ước thái bình: hình ảnh “Ngu cầm” gợi thời Nghiêu – Thuấn, nhân dân sống yên vui, hạnh phúc.

– Tình yêu thương nhân dân: ước muốn “dân giàu đủ khắp đòi phương” cho thấy tác giả lo cho đời sống muôn dân, không nghĩ riêng cho bản thân.

– Khát vọng nhân văn: Nguyễn Trãi gửi gắm tư tưởng “lấy dân làm gốc”, mong mỏi hạnh phúc chung cho xã hội.

=> Hai dòng thơ bộc lộ tình yêu dân, thương dân và khát vọng về một xã hội thái bình, nhân dân ấm no, hạnh phúc.

Câu 5.

– Chủ đề của bài thơ: Ca ngợi vẻ đẹp rực rỡ, sinh động của thiên nhiên ngày hè và thể hiện tấm lòng yêu đời, yêu dân, lo cho dân của Nguyễn Trãi.

– Căn cứ để xác định chủ đề:

+ Nhan đề của văn bản: “Cảnh ngày hè”.

+ Các từ ngữ miêu tả khung cảnh thiên nhiên; bộc lộ tình cảm, cảm xúc của tác giả.

Câu 6.

Qua niềm vui giản dị mà Nguyễn Trãi tìm thấy trong Cảnh ngày hè, em học được rằng hạnh phúc không nhất thiết phải đến từ những điều lớn lao mà có thể bắt nguồn từ chính thiên nhiên và cuộc sống quanh ta. Khi biết mở lòng cảm nhận sắc xanh của cây cối, tiếng ve ngân hay hương sen thoang thoảng, ta sẽ thấy lòng mình nhẹ nhõm và bình yên hơn. Giữ tinh thần lạc quan giúp em thêm yêu cuộc sống, yêu con người và trân trọng từng khoảnh khắc thường ngày. Từ đó, em hiểu rằng biết tận hưởng cái đẹp giản dị chính là cách sống tích cực và hạnh phúc nhất.

Tâm trạng của một nhà nho gắn bó với bao nỗi vui buồn của nhân dân giữa thời loạn lạc, đói rét, lầm than.

– Nỗi buồn bơ vơ, cô đơn của một nhà nho bất đắc chí giữa thời cuộc, chỉ có thể đứng nhìn cảnh chợ thưa thớt, người người đói khổ.

– Nhà thơ cũng khao khát, mong ước có một tín hiệu tốt đẹp trong năm mới để nhân dân thoát khỏi hoàn cảnh bi đát hiện tại.

Nguyễn Khuyến là một trong những nhà thơ nổi tiếng của văn học trung đại Việt Nam với giọng thơ mộc mạc, sâu sắc mà thấm đẫm tình quê, tình người. Trong số những sáng tác của ông, bài thơ Bạn đến chơi nhà là một tác phẩm đặc sắc, thể hiện chân thành tình bạn tri kỷ thông qua giọng thơ hóm hỉnh mà chan chứa nghĩa tình. Bài thơ không chỉ giàu giá trị nội dung mà còn hấp dẫn bởi những nét nghệ thuật độc đáo, giản dị mà tinh tế.

Trước hết, bài thơ thể hiện một tình bạn gắn bó, thuần khiết và chân thành. Nguyễn Khuyến mở đầu bằng lời chào giản dị mà đầy xúc động: “Đã bấy lâu nay bác tới nhà” – một lời trách nhẹ xen niềm mừng rỡ. Nhưng điều thú vị là thay vì đãi khách linh đình, tác giả lại liệt kê hàng loạt cái “không có”: trẻ đi vắng, chợ xa, ao sâu khó bắt cá, vườn rộng rào thưa chẳng đuổi được gà. Các sản vật trong nhà đều đang “ở thì tương lai”: “Cải chửa ra cây, cà mới nụ / Bầu vừa rụng rốn, mướp đương hoa”. Tưởng như đó là sự thiếu thốn, nhưng thực chất lại là cách Nguyễn Khuyến thể hiện sự tự nhiên, chân chất của tình bạn. Tình bạn ấy không cần vật chất, không cần mâm cao cỗ đầy, mà chỉ cần tấm lòng. Câu kết “Bác đến chơi đây, ta với ta” vang lên như một tuyên ngôn giản dị mà sâu sắc: trong cuộc gặp gỡ ấy, hai tâm hồn đồng điệu là đủ để trọn niềm vui.

Về nghệ thuật, bài thơ sử dụng thể thơ thất ngôn bát cú Đường luật nhưng được Nguyễn Khuyến vận dụng rất linh hoạt. Giọng thơ mộc mạc, ngôn ngữ giản dị, gần với lời ăn tiếng nói hằng ngày. Ông khéo léo sử dụng cách liệt kê các sự vật và tình huống trớ trêu để tạo ra giọng điệu hài hước, dí dỏm. Nếu người khác có khách đến nhà thì bày biện đủ thứ, còn Nguyễn Khuyến lại đem “cái không” ra khoe, khiến người đọc vừa bật cười vừa cảm nhận được cái tình thâm sâu ẩn trong sự giản dị. Đặc biệt, câu thơ cuối sử dụng điệp từ “ta với ta” – tưởng như vô cùng đơn giản nhưng lại hàm chứa triết lý về tình bạn tri âm, tri kỷ, nơi hai người như hòa làm một.

Tóm lại, Bạn đến chơi nhà là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của Nguyễn Khuyến: giản dị mà sâu sắc, hài hước mà đằm thắm tình người. Bài thơ ca ngợi một tình bạn chân thành, thuần khiết – thứ tình cảm đáng quý nhất trong cuộc sống. Dù không có vật chất, nhưng lại chan chứa nghĩa tình. Và chính vì thế, bài thơ vẫn sống mãi trong lòng người đọc như một minh chứng cho vẻ đẹp của tình bạn Việt Nam xưa.

Qua khung cảnh lao động bình yên trong bài thơ Chiều xuân ở thôn Trừng Mại, ta thấy rằng sống hòa hợp với thiên nhiên mang lại cho con người niềm vui và sự thanh thản. Con người và cảnh vật hiện lên gắn bó như một thể thống nhất: mưa phùn, giậu tre, ruộng đồng cùng hòa nhịp với bước chân của người nông dân. Khi biết chan hòa với thiên nhiên, ta không chỉ có lương thực để sống mà còn có nguồn sức mạnh tinh thần để vượt qua khó khăn. Thiên nhiên giúp con người cảm nhận được giá trị của lao động và biết trân trọng cuộc sống giản dị mà yên bình. Vì thế, sống hòa hợp với thiên nhiên chính là cách để con người tìm được hạnh phúc đích thực.

- Thiên nhiên tươi đẹp, nên thơ, đầy sức sống: phân phất mưa phùn; mía cạnh giậu tre đang nảy ngọn; khoai trong đám cỏ đã xanh cây.

- Gợi lên khung cảnh miền quê bình yên, dân dã: Mặc manh áo ngắn giục trâu cày; Nàng dâu sớm đã gieo dưa đó; Bà lão chiều còn xới đậu đây.

a) \(A B C D\) là hình bình hành nên hai đường chéo \(A C , B D\) cắt nhau tại \(O\) là trung điểm của mỗi đường.

Xét \(\Delta O B M\) và \(\Delta O D P\) có:

     \(O B = O D\) ( giả thiết)

     \(\hat{O B M} = \hat{O D P}\) (so le trong)

     \(\hat{B O M} = \hat{D O P}\) (đối đỉnh)

Vậy \(\Delta O B M = \Delta O D P\) (g.c.g)

Suy ra \(O M = O P\) (hai cạnh tương ứng)

Chứng minh tương tự \(\Delta O A Q = \Delta O C N\)(g.c.g) suy ra \(O Q = O N\) (hai cạnh tương ứng)

\(M N P Q\) có hai đường chéo cắt nhau tại trung điểm của mỗi đường nên là hình bình hành.

b) Hình bình hành \(M N P Q\) có hai đường chéo \(M P ⊥ N Q\) nên là hình thoi.

a) \(A B C D\) là hình bình hành nên \(A B = D C\)suy ra \(\frac{1}{2} A B = \frac{1}{2} D C\)

Do đó \(A M = B M = D N = C N\).

Tứ giác \(A M C N\) có \(A M\) // \(N C , A M = N C\)nên là hình bình hành.

Lại có \(\Delta A D C\) vuông tại \(A\) có \(A N\) là đường trung tuyến nên \(A N = \frac{1}{2} D C = D N = C N\).

Hình bình hành \(A M C N\) có hai cạnh kề bằng nhau nên là hình thoi, khi đó hai đường chéo \(A C , M N\)vuông góc với nhau.

Tứ giác \(A M C N\) là hình thoi.