Giới thiệu về bản thân

Chào mừng bạn đến với trang cá nhân của Trần Ngọc Tuấn
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
xếp hạng Ngôi sao 1 ngôi sao 2 ngôi sao 1 Sao chiến thắng
0
(Thường được cập nhật sau 1 giờ!)
1. Ngôi 3

2. Truyện kể về cuộc sống của cha con ông già mù làm nghề bán mai vàng. Cuộc sống dù vất vả nhưng cha con ông rất giàu lòng thương người. Hai cha con đã cưu mang, giúp đỡ một cô gái và sau này cô thành vợ của Mai, con dâu của già Mai. Cuộc sống ngày càng khó khăn, trước mong muốn được thay đổi để cải thiện cuộc sống của con trai, già Mai đồng ý cho các con chặt nửa vườn mai để có vốn đầu tư. Sau đó, dù buồn đau nhưng ông đã dần vui trở lại nhờ sự năng nổ của các con trong công việc mới.

3. nhận xét

+ Có tình yêu, niềm say mê đặc biệt với cây mai.

+ Yêu thương gia đình.

+ Nhân hậu, thương người, đề cao chữ tâm.

+ Sẵn sàng hi sinh cho hạnh phúc của con cháu..

5. tình cảm gia đình có ảnh hưởng

+ Nhờ tình yêu thương và sự dạy bảo của cha, Mai học được sự kiên trì, lòng nhân ái và luôn nỗ lực chăm sóc gia đình cùng vườn mai dù nghèo khó.

+ Nhờ sự hi sinh của người cha (đồng ý cho cắt nửa vườn mai) và sự đồng hành của Lan, Mai đã bước đầu xây dựng được sự nghiệp mới.


Mở bài

Nguyễn Du – bậc đại thi hào của dân tộc – đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều, bản trường ca bằng chữ Nôm thấm đẫm tinh hoa nhân đạo và nghệ thuật. Trong muôn vàn câu thơ làm lay động lòng người, có một đoạn trích chứa đựng nỗi cô đơn và đau đớn đến tận cùng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Đoạn thơ mở ra không gian tịch mịch, nơi chỉ còn Kiều đối diện với chính mình, với bóng đêm, với ngọn đèn khuya và những tiếng lòng day dứt khôn nguôi.


Thân bài

1. Cảnh vật vắng lặng, tâm trạng cô đơn

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Không gian trong hai câu thơ như ngưng đọng: hiên vắng, rèm thưa, bước chân thầm lặng. Nguyễn Du không cần những lời than khóc mà chỉ khẽ khắc họa bằng động từ “dạo”, “gieo”, “rủ” – mỗi chữ là một nhịp buồn, là bước đi của một tâm hồn nặng trĩu. Thúy Kiều thẫn thờ bước đi, rồi lại ngồi lặng, trông mong một điều gì đó mong manh, xa vắng.

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”

Con chim thước – biểu tượng của tin lành – nay cũng “chẳng mách tin”, khiến niềm hy vọng của Kiều tắt lịm. Nàng đành gửi gắm nỗi lòng cho “ngọn đèn khuya”, mong ánh sáng vô tri ấy hiểu thấu nỗi cô đơn của mình. Nguyễn Du đã nhân hoá ngọn đèn để làm bạn cùng người cô phụ – một cách tinh tế diễn tả nỗi cô quạnh, khi con người không còn ai để trò chuyện ngoài vật vô tri vô giác.


2. Nỗi đau dồn nén, lời tự tình bi thiết

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Giữa không gian tĩnh mịch, Kiều như trò chuyện cùng chính mình. Câu hỏi “đèn có biết chăng?” vang lên tha thiết mà vô vọng, thể hiện khát khao được sẻ chia, được cảm thông. Thế nhưng, “đèn có biết dường bằng chẳng biết” – câu trả lời như một tiếng thở dài, khiến nỗi cô đơn càng thêm thấm thía.

Hình ảnh “hoa đèn” và “bóng người” hòa quyện, lung linh trong đêm gợi nên một bức tranh buồn đến nao lòng. Bóng người lay động theo ánh đèn, như chính tâm hồn Kiều đang chao đảo trong nỗi nhớ, trong thương thân tủi phận.


3. Thời gian kéo dài vô tận – nỗi sầu như sóng trùng khơi

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Tiếng gà gáy – dấu hiệu của bình minh – lại càng làm nổi bật sự mỏi mòn của đêm dài. Thời gian trong tâm trạng Kiều như ngừng trôi, từng “khắc giờ đằng đẵng như niên”. Hình ảnh so sánh “mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa” mở ra không gian mênh mông, vô hạn, gợi cảm giác nỗi buồn đã hóa thành một biển cả bao la không bến bờ. Nguyễn Du thật tài tình khi biến những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên thành ngôn ngữ của tâm trạng, khiến nỗi cô đơn của Kiều trở thành biểu tượng muôn đời cho kiếp người lưu lạc.


4. Cái “gượng” của Kiều – biểu hiện bi kịch tinh thần

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”

Ba chữ “gượng” được điệp lại đầy dụng ý nghệ thuật. Kiều cố gắng tìm niềm an ủi qua những thú tao nhã – đốt hương, soi gương, gảy đàn – nhưng mọi việc đều trở nên gượng gạo, vô hồn. “Hương gượng đốt” mà “hồn đà mê mải”, “gương gượng soi” mà “lệ lại châu chan”. Càng cố quên, nàng càng nhớ; càng muốn nguôi, lại càng đau.

Câu kết “Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng” là tiếng nấc nghẹn của một trái tim vỡ vụn. Dây đàn đứt không chỉ là sự đổ vỡ của âm thanh mà còn là sự tan tác của mối tình Kiều – Kim. Cái tài của Nguyễn Du là khiến âm thanh ấy vang vọng đến tận tâm hồn người đọc – tiếng đàn như giọt lệ rơi, như sợi chỉ tình đứt giữa chừng, vừa đẹp vừa đau.


Kết bài

Đoạn thơ là một bức tranh tâm tình thấm đẫm chất nhân đạo và nghệ thuật tuyệt vời. Nguyễn Du đã dùng bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy, ngôn ngữ giàu nhạc điệu và hình ảnh tượng trưng tinh tế, kết hợp với biện pháp nhân hoá, so sánh, điệp từ để khắc họa tâm trạng cô đơn, sầu muộn, nhớ thương của Thúy Kiều.

Đọc đoạn thơ, ta không chỉ cảm thông với nỗi đau của một người con gái tài sắc mà còn nhận ra tấm lòng thương người vô hạn của Nguyễn Du – người đã khóc thay cho bao kiếp hồng nhan bị vùi dập giữa dòng đời nghiệt ngã.

Đó không chỉ là tiếng lòng của Thúy Kiều năm xưa, mà còn là tiếng nói muôn đời của những trái tim biết yêu, biết đau, biết khát khao được sống trọn với tình người và số phận.

Mở bài

Nguyễn Du – bậc đại thi hào của dân tộc – đã để lại cho đời kiệt tác Truyện Kiều, bản trường ca bằng chữ Nôm thấm đẫm tinh hoa nhân đạo và nghệ thuật. Trong muôn vàn câu thơ làm lay động lòng người, có một đoạn trích chứa đựng nỗi cô đơn và đau đớn đến tận cùng của Thúy Kiều khi bị giam lỏng ở lầu Ngưng Bích. Đoạn thơ mở ra không gian tịch mịch, nơi chỉ còn Kiều đối diện với chính mình, với bóng đêm, với ngọn đèn khuya và những tiếng lòng day dứt khôn nguôi.


Thân bài

1. Cảnh vật vắng lặng, tâm trạng cô đơn

“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.”

Không gian trong hai câu thơ như ngưng đọng: hiên vắng, rèm thưa, bước chân thầm lặng. Nguyễn Du không cần những lời than khóc mà chỉ khẽ khắc họa bằng động từ “dạo”, “gieo”, “rủ” – mỗi chữ là một nhịp buồn, là bước đi của một tâm hồn nặng trĩu. Thúy Kiều thẫn thờ bước đi, rồi lại ngồi lặng, trông mong một điều gì đó mong manh, xa vắng.

“Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm, dường đã có đèn biết chăng?”

Con chim thước – biểu tượng của tin lành – nay cũng “chẳng mách tin”, khiến niềm hy vọng của Kiều tắt lịm. Nàng đành gửi gắm nỗi lòng cho “ngọn đèn khuya”, mong ánh sáng vô tri ấy hiểu thấu nỗi cô đơn của mình. Nguyễn Du đã nhân hoá ngọn đèn để làm bạn cùng người cô phụ – một cách tinh tế diễn tả nỗi cô quạnh, khi con người không còn ai để trò chuyện ngoài vật vô tri vô giác.


2. Nỗi đau dồn nén, lời tự tình bi thiết

“Đèn có biết dường bằng chẳng biết,
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương.”

Giữa không gian tĩnh mịch, Kiều như trò chuyện cùng chính mình. Câu hỏi “đèn có biết chăng?” vang lên tha thiết mà vô vọng, thể hiện khát khao được sẻ chia, được cảm thông. Thế nhưng, “đèn có biết dường bằng chẳng biết” – câu trả lời như một tiếng thở dài, khiến nỗi cô đơn càng thêm thấm thía.

Hình ảnh “hoa đèn” và “bóng người” hòa quyện, lung linh trong đêm gợi nên một bức tranh buồn đến nao lòng. Bóng người lay động theo ánh đèn, như chính tâm hồn Kiều đang chao đảo trong nỗi nhớ, trong thương thân tủi phận.


3. Thời gian kéo dài vô tận – nỗi sầu như sóng trùng khơi

“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hoè phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”

Tiếng gà gáy – dấu hiệu của bình minh – lại càng làm nổi bật sự mỏi mòn của đêm dài. Thời gian trong tâm trạng Kiều như ngừng trôi, từng “khắc giờ đằng đẵng như niên”. Hình ảnh so sánh “mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa” mở ra không gian mênh mông, vô hạn, gợi cảm giác nỗi buồn đã hóa thành một biển cả bao la không bến bờ. Nguyễn Du thật tài tình khi biến những hình ảnh quen thuộc của thiên nhiên thành ngôn ngữ của tâm trạng, khiến nỗi cô đơn của Kiều trở thành biểu tượng muôn đời cho kiếp người lưu lạc.


4. Cái “gượng” của Kiều – biểu hiện bi kịch tinh thần

“Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng.”

Ba chữ “gượng” được điệp lại đầy dụng ý nghệ thuật. Kiều cố gắng tìm niềm an ủi qua những thú tao nhã – đốt hương, soi gương, gảy đàn – nhưng mọi việc đều trở nên gượng gạo, vô hồn. “Hương gượng đốt” mà “hồn đà mê mải”, “gương gượng soi” mà “lệ lại châu chan”. Càng cố quên, nàng càng nhớ; càng muốn nguôi, lại càng đau.

Câu kết “Dây uyên kinh đứt phím loan ngại chùng” là tiếng nấc nghẹn của một trái tim vỡ vụn. Dây đàn đứt không chỉ là sự đổ vỡ của âm thanh mà còn là sự tan tác của mối tình Kiều – Kim. Cái tài của Nguyễn Du là khiến âm thanh ấy vang vọng đến tận tâm hồn người đọc – tiếng đàn như giọt lệ rơi, như sợi chỉ tình đứt giữa chừng, vừa đẹp vừa đau.


Kết bài

Đoạn thơ là một bức tranh tâm tình thấm đẫm chất nhân đạo và nghệ thuật tuyệt vời. Nguyễn Du đã dùng bút pháp tả cảnh ngụ tình bậc thầy, ngôn ngữ giàu nhạc điệu và hình ảnh tượng trưng tinh tế, kết hợp với biện pháp nhân hoá, so sánh, điệp từ để khắc họa tâm trạng cô đơn, sầu muộn, nhớ thương của Thúy Kiều.

Đọc đoạn thơ, ta không chỉ cảm thông với nỗi đau của một người con gái tài sắc mà còn nhận ra tấm lòng thương người vô hạn của Nguyễn Du – người đã khóc thay cho bao kiếp hồng nhan bị vùi dập giữa dòng đời nghiệt ngã.

Đó không chỉ là tiếng lòng của Thúy Kiều năm xưa, mà còn là tiếng nói muôn đời của những trái tim biết yêu, biết đau, biết khát khao được sống trọn với tình người và số phận.

- Lựa chọn của Từ Thức ở cuối đoạn trích: Chọn vào núi, xa rời cuộc sống trần gian.

- Lí giải: Từ Thức trở nên lạc lõng bơ vơ khi chàng không còn thuộc về chốn thần tiên cũng không còn hợp với cõi nhân gian. Chính vì vậy ra đi là cách tốt nhất cho chàng.

- Lựa chọn của Từ Thức ở cuối đoạn trích: Chọn vào núi, xa rời cuộc sống trần gian.

- Lí giải: Từ Thức trở nên lạc lõng bơ vơ khi chàng không còn thuộc về chốn thần tiên cũng không còn hợp với cõi nhân gian. Chính vì vậy ra đi là cách tốt nhất cho chàng.

Bài thơ "Nghe cỏ" của Trương Minh Phước là một tác phẩm đầy cảm xúc, thể hiện tâm hồn nhạy cảm, tinh tế cùng với những suy ngẫm sâu sắc về cuộc sống, con người và thiên nhiên. Với cấu trúc lặp lại câu "Nếu nằm xuống lặng yên nghe có hát", bài thơ không chỉ mang đến âm sắc nhẹ nhàng mà còn gợi mở một chiều sâu triết lý về sự kết nối giữa con người và thế giới xung quanh.

Đầu tiên, cảm nhận về cái đẹp và sự thanh thản trong nội tâm chính là thông điệp đầu tiên mà tác giả muốn truyền tải. Hai câu thơ đầu tiên: "Sẽ thấy lòng thanh thoát lâng lâng / Sẽ thấy môi ban mai nắng lên" mang đến hình ảnh thanh bình, cho thấy khi con người tạm dừng lại để nghe tiếng hát của cỏ, họ sẽ cảm nhận được vẻ đẹp tinh khôi của thiên nhiên. Hình ảnh "giọt sương đêm còn treo trên lá cỏ" không chỉ gợi ra vẻ đẹp tự nhiên mà còn biểu trưng cho những điều tốt đẹp, thuần khiết của đời sống, như những ngôi sao lấp lánh trên bầu trời.

Tuy nhiên, trong những dòng tiếp theo, tác giả cũng không quên nhắc đến những khía cạnh con người đầy gian truân, mệt mỏi. Câu thơ "Thấy quang gánh đè vai gầy trĩu nặng" là một hình ảnh sinh động về sức lực và nỗi nhọc nhằn của những người lao động. Những "bàn chân trên có bước nhọc nhằn" và "mặn mỏi những giọt mồ hôi" đã khắc họa rõ nét hình ảnh những người dân bình dị nhưng mang trong mình một nghị lực sống mạnh mẽ. Đây là sự đối lập giữa cái đẹp tự nhiên và cái khó khăn của cuộc sống, nhấn mạnh rằng con người không chỉ sống trong cái đẹp mà còn phải đối diện với những thử thách và khổ đau.

Tiếp đến, hình ảnh "Thấy bàn tay nắm chặt những bàn tay" trong câu thơ thứ năm lại mang đến một thông điệp tốt đẹp về tình người, tình đồng loại. Sự kết nối giữa con người với con người chính là sức mạnh, là niềm an ủi trong những lúc khó khăn. Mặc dù "ao rách choàng lên áo rách", những con người ấy vẫn gắn bó, sẻ chia, tạo nên sức mạnh vượt qua thử thách. Cuối cùng, câu thơ "Đông giá lui dần, nắng ấm gọi vào xuân" tạo nên một kết thúc đầy hy vọng, tượng trưng cho cái mới, sự khởi đầu và niềm tin vào tương lai tươi sáng hơn.

Như vậy, bài thơ "Nghe cỏ" của Trương Minh Phước không chỉ đơn thuần là một tác phẩm nghệ thuật mà còn là một bức tranh sống động, phản ánh tâm tư của con người trong cuộc sống. Nó mang trong mình nhiều tầng ý nghĩa: từ sự thanh tĩnh của tâm hồn đến nhọc nhằn của cuộc đời, từ tình yêu thương giữa con người đến niềm hy vọng vào tương lai. Qua đó, tác giả mời gọi mỗi chúng ta hãy lắng nghe, hòa mình vào thiên nhiên và khám phá những điều sâu sắc nhất của cuộc sống, hiểu và yêu thương con người hơn.

Câu 1 (0,75 điểm): Luận đề của đoạn trích là: Bàn về sự xúc phạm và cách con người đối diện với điều này để tìm thấy động lực phấn đấu, hướng đến những điều tốt đẹp.

Câu 2 (0,75 điểm):

– Cách dẫn trực tiếp.

– Lời dẫn: Cô có thể bảo học sinh đó rời khỏi chỗ ngồi của mình được không? Cậu bé ăn mặc nhếch nhác quá.

Câu 3 (0,5 điểm):

Những lí lẽ mà người cha đưa ra để thuyết phục con không cần phải dao động khi có ai đó làm tổn thương tình cảm, danh dự của con:

– Danh dự không phải là món quà do Thượng đế ban tặng, cũng không phải do người khác đưa cho, mà là do chính con tạo nên.

– Danh dự là sản phẩm tinh thần mà con sở hữu, và danh dự của mỗi người đều chỉ thuộc về chính họ.

– Con cho rằng mình có danh dự, vậy tức là con có danh dự.

Câu 4 (1,0 điểm): 

– Bằng chứng: Trong buổi chụp hình cùng các bạn cấp hai, người cha đã bị vị nhiếp ảnh gia xúc phạm khi đề nghị giáo viên mời ông ra khỏi chỗ ngồi vì ăn mặc nhếch nhác quá.

– Vai trò của việc sử dụng bằng chứng:

+ Làm sáng tỏ quan điểm bất kì ai cũng đều bất lực trước việc ngăn chặn những lời xúc phạm từ người khác, từ đó nhấn mạnh động lực phấn đấu từ những lời xúc phạm.

+ Khuyên mọi người không nên gây tổn thương người khác và biết cách đối diện với những lời xúc phạm từ người khác..

+ Lập luận chặt chẽ, hấp dẫn, tăng tính thuyết phục, độ tin cậy cao.

Câu 5 (0,5 điểm): 

– Kiên quyết là giữ vững lập trường, ý chí và quyết tâm mạnh mẽ không thay đổi, không dao động,...; tổn thương nghĩa là bị tổn hại về uy tín, lòng tự trọng hay những giá trị tinh thần khác.

– Người cha muốn nói với con: Khi con cương quyết, dứt khoát bảo vệ những nguyên tắc đạo đức và phẩm giá của bản thân thì không ai có thể thực sự làm tổn hại đến giá trị của con được.

– Từ đó, người cha khuyên con hãy luôn giữ vững giá trị của bản thân, vì đó là cách bảo vệ mình khỏi những tổn thương trong cuộc sống.

Câu 6 (0,5 điểm):

– HS nêu quan điểm đồng tình/ không đồng tình.

– Lý giải:

+ Đồng tình vì: Trong cuộc sống ta không tránh khỏi việc gặp những lời xúc phạm. Việc chúng ta dám đối mặt với điều đó, tự tin bước qua sẽ giúp ta khẳng định được giá trị của mình và đạt được điều ta mong muốn.

+ Không đồng tình vì: Không phải ai cũng có thể vượt qua lời xúc phạm, có những người sẽ bị tổn thương và cảm thấy bi quan, mất tự tin.

My school name is Tran Bich San secondary School. It's in Le Hong Phong Street. My school has 40 classes, 45 teachers and about 1000 students. My school has a very big playground with many trees, flowers and fruits. Moreover, my schoolmates are very friendly and kind. The teachers are careful and very helpful too. Ilove my school very much!