Giới thiệu về bản thân
Trong số các truyền thuyết cổ xưa của dân tộc Việt Nam, câu chuyện về Sơn Tinh và Thủy Tinh không chỉ là một huyền thoại giải thích hiện tượng thiên nhiên khắc nghiệt mà còn là biểu tượng cho tinh thần kiên cường, bất khuất của người Việt trong cuộc đấu tranh chống lại thiên tai.
Truyền thuyết kể rằng, vào đời vua Hùng thứ 18, có một nàng công chúa xinh đẹp tuyệt trần tên là Mị Nương. Vua Hùng muốn kén cho con gái một người chồng xứng đáng nên đã mở hội thi tuyển rể. Từ khắp nơi, nhiều chàng trai tài giỏi tìm đến, nhưng nổi bật nhất là hai vị thần: Sơn Tinh và Thủy Tinh.
Sơn Tinh là một chàng trai khôi ngô, có tài lạ: chỉ cần vẫy tay, núi đồi trùng điệp sẽ mọc lên, cây cối xanh tươi. Thủy Tinh cũng không kém cạnh, chàng có khả năng hô mưa gọi gió, làm cho biển cả và sông ngòi cuộn trào. Cả hai đều tài giỏi ngang sức ngang tài, khiến Vua Hùng khó lòng lựa chọn.
Cuối cùng, Vua Hùng đặt ra điều kiện thách cưới: "Sáng sớm hôm sau, ai mang đến sính lễ gồm một trăm ván cơm nếp, một trăm nệp bánh chưng, voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao đến trước, người đó sẽ được cưới Mị Nương."
Sáng hôm sau, khi mặt trời vừa ló rạng, Sơn Tinh đã mang đầy đủ sính lễ đến trước. Vua Hùng giữ lời hứa, gả Mị Nương cho Sơn Tinh. Thần Núi rước vợ về núi Tản Viên.
Khi Thủy Tinh đến nơi, thấy Mị Nương đã theo chồng, chàng vô cùng giận dữ. Cảm thấy bị sỉ nhục, Thủy Tinh đã nổi cơn lôi đình, dốc toàn lực để báo thù. Thần Nước hô mưa, gọi gió, làm nước biển dâng cao, dìm chìm đồng bằng, muốn nhấn chìm núi Tản Viên để cướp lại Mị Nương.
Trước sức mạnh kinh hoàng của nước, Sơn Tinh không hề nao núng. Thần Núi dùng phép lạ, bốc từng quả đồi, từng dãy núi chặn đứng dòng nước lũ. Nước dâng lên bao nhiêu, Sơn Tinh đắp đất, nâng núi cao lên bấy nhiêu. Cuộc chiến kéo dài ròng rã suốt mấy tháng trời. Cuối cùng, sức Thủy Tinh kiệt dần, đành phải rút lui.
Tuy nhiên, mối thù này không bao giờ dứt. Hàng năm, cứ đến mùa mưa bão, Thủy Tinh lại dâng nước lên đánh Sơn Tinh để đòi Mị Nương, gây ra cảnh lũ lụt khắp vùng đồng bằng Bắc Bộ. Và năm nào cũng vậy, Sơn Tinh vẫn chiến thắng, giữ vững bờ cõi và bảo vệ cuộc sống của người dân.
Em rất thích truyền thuyết này!
Câu 1. (0.5 điểm) Câu chuyện trên được kể theo ngôi thứ mấy?
Câu chuyện trên được kể theo ngôi thứ ba (người kể chuyện giấu mình, gọi nhân vật bằng tên/đại từ nhân xưng ngôi thứ ba như "cậu", "người mẹ", "bà con"...).
Câu 2. (0.5 điểm) Aưm có hoàn cảnh như thế nào?
Aưm có hoàn cảnh rất khó khăn, đáng thương:
- Sống trong hoàn cảnh thiên tai hạn hán kéo dài, bản làng đói khát, xơ xác.
- Chỉ sống cùng người mẹ ốm đau liên miên.
- Tuy còn nhỏ (7 tuổi) nhưng đã phải là chỗ dựa của mẹ, hằng ngày phải vào rừng kiếm thức ăn nuôi mẹ.
Câu 3. (1.0 điểm) Tìm 01 từ láy có trong câu chuyện và đặt 01 câu với từ láy đó.
1. Tìm từ láy:
- Một từ láy có trong câu chuyện là: xơ xác (hoặc: đen nhẫy, vàng hoe, thiêm thiếp, lũ lượt, tăm tắp...).
2. Đặt câu với từ láy đó:
- (Với từ "xơ xác"): Sau đợt hạn hán kéo dài, cánh đồng trở nên xơ xác, nứt nẻ.
- (Hoặc với từ "thiêm thiếp"): Người mẹ nằm thiêm thiếp trên giường vì đói lả.
Câu 4. (1.0 điểm) Chi tiết "Hằng ngày, Aưm dậy sớm vào rừng kiếm măng, hái nấm, hái quả mang về cho mẹ." đã chứng minh Aưm là người thế nào?
Chi tiết "Hằng ngày, Aưm dậy sớm vào rừng kiếm măng, hái nấm, hái quả mang về cho mẹ" đã chứng minh Aưm là một người con:
- Hiếu thảo: Cậu yêu thương mẹ và luôn lo lắng, tìm mọi cách để chăm sóc, nuôi dưỡng mẹ.
- Chăm chỉ, cần cù: Cậu không ngại khó khăn, nguy hiểm, hằng ngày dậy sớm và vào rừng để kiếm thức ăn.
- Có trách nhiệm: Tuy còn nhỏ nhưng cậu đã gánh vác trách nhiệm chăm sóc mẹ khi mẹ ốm đau.
?